GIÁO TRÌNH

Kỹ thuật khai thác thủy sản B

Science and Technology

Mối quan hệ giữa mồi và tập tính cá

Mồi câu cá và tập tính cá có quan hệ mật thiết với nhau. Tùy theo tập tính ăn mồi của đối tượng khai thác mà có các loại mồi khác nhau. Thực tế có 2 loại mồi là: Mồi dụ cá và mồi câu.

Mồi dụ cá

Mồi dụ cá không phải là mồi trực tiếp mắc vào lưỡi câu. Mồi dụ cá nhằm gây kích thích trạng thái sẵn sàng bắt mồi của cá và lôi cuốn cá đến khu vực thả câu.

Yêu cầu đối với mồi dụ cá là:

  • Cá phải cảm nhận được mồi và kích thích sự bắt mồi của cá.
  • Không được để cá ăn no mồi dụ cá.

Do vậy thông thường mồi dụ được đặc chế ở dạng bột hay nước. Mồi dụ phải được rãi đều trong khu vực rộng gần nơi thả mồi câu. Cá bị kích thích bởi mồi dụ sẽ tìm đến khu vực thả mồi câu, và bởi cá không thể ăn được mồi dụ khi đó nếu cá phát hiện mồi câu sẽ ăn mồi câu và vướng câu.

Mồi câu

Thực tế đánh bắt nghề câu thường thấy có 2 dạng mồi câu: Mồi giả và mồi thật.

  • Mồi giả

Mồi giả có hiệu suất khai thác không cao bằng mồi thật. Tuy vậy, mồi giả cũng áp dụng được đối với các đối tượng cá tham ăn và phàm ăn, không có tính kén chọn mồi. Yêu cầu đối với mồi giả là phải có hình dáng, màu sắc, mùi vị phải gần giống như mồi thật, và phải gây được sự kích thích ham bắt mồi của cá. Mồi giả có thể kết hợp thêm với các yếu tố vật lý (màu sắc, ánh sáng,...) để hấp dẫn hoặc đánh lừa cá.

Ưu điểm của mồi giả là giá thành rẽ và có thể sử dụng được nhiều lần. Tuy nhiên, mồi giả không phải lúc nào cũng áp dụng được, tùy theo đối tượng câu mà ta có nên chọn mồi giả hay không.

  • Mồi thật

Trong thực tế nghề câu đôi khi mồi giả không thể đánh lừa được các loài cá khôn ngoan và thận trọng, nên người ta phải dùng mồi thật. Mồi thật có 3 dạng: Mồi sống, mồi tươi và mồi ướp.

+ Mồi sống

Mồi sống là các động vật còn sống (cá sống, nhái, dế,...). Mồi sống có hiệu suất câu rất lớn bởi sự di dộng của mối sẽ gây kích thích sự ham bắt mồi của cá. Tuy nhiên mồi sống thì khó tìm, khó giữ được luôn ở trạng thái sống và giá thành đắt. Việc bảo quản mồi sống phải theo đúng yêu cầu kỹ thuật.

Các yêu cầu bảo quản mồi sống là:

  • Không nên để mồi sống nơi quá chật hẹp, mồi sống có thể bị chết. Cũng không được để nơi quá rộng, sẽ khó bắt mồi để móc câu.
  • Luôn đầy đủ oxy (dưỡng khí) cho mồi sống và cần có môi trường sống gần giống vơí môi trường tự nhiên của mồi sống.

Khi thực hiện câu bằng mồi sống ta nên cố gắng móc mồi vào vị trí nào đó sao cho mồi sống có thể bơi lội được tự nhiên trong nước. Cụ thể:

- Đối với cá nhỏ ta nên móc lưỡi câu vào vi lưng hoặc vi đuôi.

- Đối với Nhái ta nên móc lưỡi câu vào đùi.

- Đối với dế ta nên móc lưỡi câu vào lưng.

+ Mồi tươi

Mồi tươi là những động vật đã chết nhưng ở trạng thái còn tươi. Mồi tươi có hiệu suất câu không bằng mồi sống, nhưng tương đối dễ tìm và dễ bảo quản hơn mồi sống. Mồi tươi được sử dụng rộng rộng rãi trong nghề câu.

Để mồi tươi có thể sử dụng lâu dài, ta nên giữ mồi luôn ở trạng thái lạnh hoặc ướp đá nhằm ngăn sự phân hủy của vi sinh vật.

+ Mồi ướp

Mồi ướp là mồi tươi đã được ướp muối hoặc ướp khô. Mồi ướp có thể sử dụng lâu dài, phục vụ cho các chuyến khai thác xa, lâu ngày. Nhược điểm của mồi ướp là hiệu quả đánh bắt không cao, mồi dễ bị phân rã khi được đưa vào nước.

Quan hệ giữa mồi và tập tính cá

Thực tế nghề câu người ta thấy rằng cá tiếp xúc với mồi thông qua đủ cả 5 giác quan: Thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác và xúc giác. Ta sẽ lần lượt tìm hiểu mối quan hệ này qua việc bắt mồi của cá.

  • Thính giác

Cá có thể phát hiện ra mồi thông qua thính giác của nó. Khi nghe tiếng động, các loại cá tham ăn, phàm ăn sẽ lao nhanh đến khu vực có tiếng động để tìm mồi. Người ta thấy rằng đa số các loài cá sống tầng mặt ở sông đều có đặc tính này, do vậy khi câu các đối tượng này người ta thường đập cần câu xuống nước để gây sự chú ý đối với cá, khi đó các loài cá tham ăn này sẽ nghĩ rằng có thức ăn rơi xuống nước, chúng sẽ lao đến để bắt mồi.

Tuy nhiên, có một số loài cá lại rất sợ tiếng động, khi đó chúng sẽ lánh xa vùng có tiếng động. Do vậy khi câu đối tượng này ta không nên gây ồn, có thể làm cá sợ mà không dám bắt mồi.

  • Thị giác

Đa số các loài cá đều có thị giác kém phát triển. Đặc điểm này do bởi cá sống trong môi trường nước có độ trong không cao và ánh sáng bị giảm dần theo độ sâu. Người ta phát hiện rằng nhiều cá sống tầng sâu có thị giác rất kém, gần như không thấy gì. Tuy vậy cũng có một số loài cá có khả năng nhìn thấy mục tiêu cũng tương đối xa, khoảng 50 m. Trong thực hành nghề câu, để có thể giúp cho cá phát hiện ra mồi ta thường đưa mồi đến gần khu vực có cá xuất hiện và di chuyển mồi tới lui, lên xuống nhằm gây sự chú ý và kích thích sự bắt mồi của cá.

Mặt khác trong thực hành câu ta cũng nên hú ý vị trí của chúng ta khi ngồi câu cá, người câu không nhìn thấy cá dưới nước nhưng ngược lại cá có thể phát hiện ra người câu, khi đó cá không dám bắt mồi (H 1). Điều này được giải thích do bởi có sự khác nhau về chiết suất môi trường nước và không khí, ánh ánh đi khi truyền qua lớp bề mặt tiếp xúc sẽ bị khúc xạ, chính sự khúc xạ này sẽ làm cho cá phát hiện ra người câu. Do vậy ta cũng nên chú ý trường hợp này khi ngồi câu cá, cố gắng tránh không cho cá phát hiện chúng ta đang câu.

Ở vị trí này cá phát hiện ra người câu
  • Khứu giác

Một số loài cá có khứu gác khá phát triển, chúng có thể đánh hơi và phân biệt mồi ở khoảng cách xa. Mỗi loài cá khác nhau có sự ưa thích mùi vị khác nhau, thường các loài cá sống tầng đáy, ăn tạp, rất thích các mồi nặng mùi (hôi, thối, tanh,...) hoặc có mùi đặc biệt, chẳng hạn: Con dán, con mắm, trùng lá,... Do vậy tùy theo đối tượng câu mà ta chọn mồi thích hợp. Trong quá trình câu nếu thấy mùi của mồi bị biến chất ta phải thay mồi mới.

  • Vị giác

Người ta nhận thấy rằng các loài cá thận trọng, có tính kén chọn mồi, thường có vị giác khá phát triển. Chúng có khả năng phân biệt các vị của mồi khác nhau. Một sự thay đổi nhỏ về vị của mồi cũng làm cho chúng kén ăn, chẳng hạn khi mồi bị ngâm lâu trong nước thường vị của mồi sẽ nhạt đi cá sẽ không còn hứng thú bắt mồi nữa. Do vậy tùy theo đối tượng câu ta nên chọn vị của mồi cho thích hợp, thông thường nên cố gắng tránh các vị quá chua, quá chát, quá đắng hoặc quá mặn.

  • Xúc giác

Người ta còn nhận thấy ở một số loài cá có xúc giác tương đối phát triển, nhất là các loài cá họ xương sụn: cá nhám, cá đuối, ... chúng thường đánh giá mồi qua độ cứng của mồi. Mồi để lâu trong nước sẽ trở nên mềm nhão, các loài cá này sẽ không thích ăn. Do vậy người câu thường thay đổi mồi nếu quá mềm nhão.

Tóm lại, cá khi phát hiện ra mồi và tiếp xúc với mồi không chỉ dựa vào một vài giác quan mà gần như tổng hợp tất cả các giác quan của nó để đánh giá mồi và chất lượng mồi, sau đó mới bắt mồi. Ta cần tìm hiểu kỹ từng đối tượng câu cụ thể mà chọn mồi cho thích hợp.