Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam
Social SciencesAi là người làm chủ thực sự các doanh nghiệp Nhà nước?
Báo Tuổi trẻ ra ngày 4/6/2003 vừa qua, khi đưa tin Quốc hội thảo luận Dự luật Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), đã cho chạy một tiêu đề: Chủ DNNN: "Anh" là ai? Đó là đoạn thuật lại ý kiến của một đại biểu: Dự luật "rất chi tiết về các mô hình quản lý" nhưng vẫn chưa rõ "ai là người làm chủ thực sự các DNNN". Đây là một câu hỏi đã có hàng chục năm nay, từ trước khi thông qua luật DNNN năm 1995. Thế nhưng, đến nay vẫn chưa thấy có câu trả lời, mặc dù đây là một trong vài ba vấn đề cốt lõi của Dự luật.
KHI QUYỀN SỬ DỤNG TÁCH RỜI QUYỀN SỞ HỮU
Quyền sở hữu (QSH) tài sản trong kinh tế có thể chia thành:(1) Quyền được hưởng vàđược định đoạt lợi ích hay thu nhập thặng dư phát sinh từ tài sản, (2) Quyền chuyểnnhượng như bán, để thừa kế, tặng biếu v.v… và (3) Quyền khai thác sử dụng liên quan đến việc quản lý, ra-quyết-định, giám sát… đối với tài sản
Khi QSD tách rời QSH, các CSH thường giao QSD cho một tập thể là HĐQT chứ không giao cho một người là Giám đốc. Tuy vậy, các CSH vẫn như luôn phải gánh chịu một tổn thất gọi là "tổn thất do giao quyền" (Agency Cost). Ví dụ, lẽ ra ở một công ty nào đó, ông giám đốc đi xe Toyota là vừa nhưng ông ta lại sắm chiếc Mercedex. Chênh lệch giá giữa hai chiếc xe đó chính là một loại "tổn thất do giao quyền". Ở DNNN, sự tách rời nói trên càng rõ ràng hơn và do đó cơ hội để có những "tổn thất do giao quyền" càng lớn hơn.
"CSH CỘNG ĐỒNG" VÀ HĐQT
HĐQT ở các công ty được dịch từ từ "HĐ các Giám đốc" (Board of Directors) hay là "HĐ công ty" (Corporate Board). Về bản chất, đây là một loại "hội đồng lãnh đạo" hay "HĐ cai quản" (Governing Board)
CSH ở các tổ chức này hoặc là "Nhà nước ", là "toàn dân" có tính chất danh nghĩa như ở các HĐ thành phố, ở các DNNN,… hoặc là một cộng đồng rộng lớn, hoặc là ai đó mà HĐ đang được ủy thác nhưng rất khó nói, họ là ai. Thường các CSH ở đây không có tổ chức riêng của mình và do vậy, người ta gọi là "CSH khuyết danh" hay "CSH cộngđồng", và cũng có thể gọi là "CSH tập thể". (Thậm chí, nhiều CSH ở một số tổ chức cũng không ý thức được mình là CSH). Đó là đặc điểm chung của các tổ chức có HĐ cai quản.
HĐQT ở các công ty với vai trò "cai quản", họ được ủy thác gần như toàn bộ QSD và phải "chịu trách nhiệm xã hội" (Accountability), nghĩa là vừa có thẩm quyền (Authority) vừa có bổn phận (Responsibility) đối với CSH. HĐQT ít nhất phải ra-quyết-định tập thể về 3 loại vấn đề sau đây: (1) Giữ mối quan hệ giữa công ty và CSH, (2) Xây dựng chính sách công ty (các mục tiêu, chiến lược công ty, huy động vốn…), và (3) Đảm bảo, theo nghĩa "bảo hiểm", cho việc hoàn thành nhiệm vụ của bộ phận thực thi thông qua việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc đáp ứng các tiêu chí đã được HĐQT đặt ra cho bộ phận thực thi. HĐQT là một tổ chức khá đặc biệt, về nguyên tắc họ chỉ có một "nhân viên" là Giám đốc. Nhưng mối quan hệ giữa các thành viên của HĐQT với Giám đốc lại là quan hệ đồng nghiệp, cộng sự, liên kết ngang trong cơ chế "điều phối tự quản". Quan hệ ở đây không phải là cấp trên, dưới trong cấu trúc của tổ chức hành chánh có liên kết dọc, bất đối xứng vì chủ yếu "dưới phải nghe trên". HĐQT là lãnh đạo, cai quản với công cụ chủ yếu là xây dựng Chínhsách công ty, còn giám đốc là quản lý để thực hiện các chính sách đó. Giám đốc chỉ có trách nhiệm đối với HĐQT như là một thực thể chứ không có trách nhiệm đối với từng thành viên của HĐQT.
Từ những phân tích ở trên, phải chăng có thể nói rằng, CSH ở DNNN cũng có dạng "CSH cộng đồng" và HĐQT là người làm chủ thực sự các QSD tài sản ở các DNNN?
CÁC MỐI QUAN HỆ VÀ "QUẢN LÝ MINH BẠCH"
Đây là môt vấn đề khá tinh tế và phức tạp. Theo Kaufmans, có 3 khối quyền lực: Các cổ đông, HĐQT và khối quản lý (Shareholders - Board - Management)(5). Từ đó hình thành 3 mối quan hệ "tay đôi" trong hệ thống cai quản của công ty. Cần phải lành mạnh hóa cả 3 mối quan hệ này. Người ta cho rằng, sự đổ vỡ ở một số công ty lớn của Mỹ vừa qua chính là do có sự mất cân bằng giữa 3 mối quan hệ đó. Mối quan hệ giữa HĐQT và khối quản lý như "quá chặt chẽ" trong khi mối quan hệ giữa HĐQT và cổ đông, trên thực tế, còn quá "lỏng lẻo". Do vậy, có thể có một số cải cách sau đây: (a) Tạo ra một khoảng cách lànhmạnh giữa HĐQT và Khối quản lý bằng cách tăng lên số thành viên độc lập trong HĐQT. Hơn nữa, các ban chuyên môn như ban kiểm soát, kiểm toán, ban xác định lương / thưởng v.v… của HĐQT chỉ bao gồm những thành viên độc lập; (b) Thiết lập sự minh bạch (transparency - đúng hơn là sự trong suốt) trong mối quan hệ giữa các cổ đông và HĐQT và (c) Tìm cách công khai hoá quá trình đề cử các thành viên của HĐQT, công khai hoá kết quả bỏ phiếu (về các quyết định) của thành viên HĐQT trong công ty (Scorecards).
Đối với DNNN nói chung, kinh nghiệm thế giới cũng đã cho thấy, vấn đề không phải là việc quy định được làm việc này, không được làm việc kia, mà cơ bản là "sự quản lý trong suốt". Hãy để cho các thành viên HĐQT và Giám đốc tự do hành động nhưng tất cả những hành động đó phải được mọi người, ít nhất là những nhóm lợi ích có liên quan (Stakeholders), nhìn thấy.
VÀI VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN TRONG DỰ LUẬT
- Cần có HĐQT ở mọi DNNN. Như đã nêu ở trên, DNNN là nơi có việc tách rời giữa QSH và QSD rất rõ ràng và có rất nhiều cơ hội cho "tổn thất do giao quyền". Chúng ta đang có khoảng 5.200 DNNN, trong đó chủ yếu là các DNNN quy mô vừa và nhỏ. Tổng "tổn thất do giao quyền" ở đây do đó có lẽ lại là một con số rất lớn. Vì vậy, tại sao lại có loại DNNN không có HĐQT? (Mục I, Chương IV). Cần lưu ý là, các thành viên HĐQT chủ yếu là những người làm việc một phần thời gian, hưởng phụ cấp chứ không hưởng lương, và cần tăng cường những thành viên độc lập bên ngoài DNNN. Khi đó, vấn đề nhân sự không phải là không có cách giải quyết. Mặt khác, chỉ có HĐQT mới dám quyết định trong việc đầu tư, kinh doanh các dự áncó rủi ro cao, mà rủi ro cao thì kỳ vọng lợi nhuận mới cao.
- Cần có quy định về cơ cấu và cách lựa chọn HĐQT. Có thể cho rằng, chất lượng và cơ cấu của HĐQT có ý nghĩa quyết định sự thành bại của một DNNN. Chính vì vậy, theo Kaufman 5) Kaufman, The Board’s Missing link, Harvard Business Review, 3/20035), tâm điểm của cải cách quản trị doanh nghiệp hiện nay là HĐQT và cơ cấu thành phần các ban chuyên môn của nó. Hơn nữa, về nguyên tắc, HĐQT thuộc về cơ chế bầu chọn. Trong khi đó, Điều 31 chưa nói đến cơ cấu của HĐQT và giao cho "người" quyết định thành lập DNNN bổ nhiệm cả chủ tịch HĐQT và các thành viên. Vì vậy, đề nghị có thêm một số quy định ở điều này về: (a) Cơ cấu HĐQT, trong đó cần có quy định tỷ lệ số thành viên độc lập (kể cả người bên ngoài DNNN) trong HĐQT, và (b) Cách bầu chọn HĐQT. HĐQT phải chăng phải do một tập thể "những người có lợi ích liên quan", trong đó có "người" ra quyết định thành lập, đại diện Đảng ủy, Công đoàn, v.v… của chính DNNN, tổ chức bầu chọn? Tất nhiên ý kiến của "người" quyết định thành lập DNNN vẫn có một trọng số lớn.
- Không nên thành lập “Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước” . Chúng ta thử hình dung thế này: Thứ nhất, chúng ta sẽ thành lập bao nhiêu tổng công ty loại này? Nếu có rất nhiều, ví dụ, 50 tổng công ty, chúng ta sẽ hình thành một bộ máy trung gian cồng kềnh đầy quyền lực mà lại rất khó xác định trách nhiệm của họ. Nếu có ít, ví dụ, 10 tổng công ty, mỗi tổng công ty khi đó lại phải làm "nghĩa vụ CSH" (Điều 60), mà thực chất là phải ra-quyết-định, ở 300 - 400 DNNN với những lĩnh vực, ngành nghề… rất khác nhau. Điều đó còn phạm vào nguyên tắc quản lý: "phạm vi giám sát có hiệu quả", một cấp trên không thể quản lý có hiệu quả hàng trăm đơn vị cấp dưới. Thứ hai, ai sẽ là người ra-quyết-định về đầu tư, về kinh doanh ở các DNNN mà tổng công ty này làm "nghĩa vụ CSH"? Trên thực tế, sẽ là những nhân viên của các tổng công ty này. Trong khi đó QSD đã được giao cho giám đốc và/ hoặc HĐQT. Thứ ba, các "Công ty trách nhiệm hữu hạn NN", các "công ty cổ phần NN" là những DNNN do Nhà nước đầu tư toàn bộ vốn hoặc do các công ty NN, tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn lập nên (Điều 3). Ở đó đã có đại diện của CSH. Vậy tại sao lại phải có thêm một "nghĩa vụ CSH" nữa?
(4) Chỉ nên có một cơ quan thực hiện "quyền và nghĩa vụ của CSH". Dự luật DNNN (sửa đổi) đang hướng vào phương án có cả (1) Bộ quản lý ngành, (2) UBND cấp tỉnh, (3) Bộ Tài chính, (4) "Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn NN" và (5) HĐQT tham gia vào việc phối hợp thực hiện "quyền CSH". Thực đáng e ngại cho cơ chế này. Một mặt, "quyền của CSH" không được định nghĩa rõ, mặt khác, có quá nhiều tổ chức chia xẻ quyền này, và do đó không có tổ chức nào chịu trách nhiệm rõ ràng đối với DNNN.
Như đã nêu ở trên, QSH ở DNNN cũng có thể chia thành: (1) Quyền hưởng lợi phát sinh, (2) Quyền chuyển nhượng và (3) Quyền sử dụng, giám sát. Quyền (1) ở DNNN phần lớn đã được quy định chặt chẽ trong Dự luật và các văn bản dưới luật . Quyền (2) theo nghĩa chuyển nhượng để hưởng thụ thì với DNNN không ai có quyền cả, chỉ còn quyền quyết định thành lập, giải thể, chuyển đổi v.v… Quyền (3), phần QSD đã được giao cho HĐQT và giám đốc DNNN. Do vậy, nếu tất cả DNNN đều có HĐQT thì phải chăng chỉ cần một cơ quan Nhà nước thực hiện "quyền và nghĩa vụ" này. Đó là "người" có quyền đề nghị thành lập, tổ chức lại hoặc giải thể DNNN (hoặc Bộ tài chính, hoặc Bộ quản lý ngành, hoặc UBND cấp tỉnh v.v…). "Quyền và nghĩa vụ" này bao gồm: (a) Quyền đề nghị thành lập, giải thể, tổ chức lại…, (b) Quyền giám sát nói chung, đặc biệt là giám sát việc thực hiện Quyền (1) và các báo cáo tài chính, và (c) Quyền đánh giá sự hoàn thành nhiệm vụ của DNNN, bổ nhiệm và miễn nhiệm HĐQT.
- Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam
- Lời nói đầu
- Lời giới thiệu
- Các chữ viết tắt
- Giáo dục đại học
- 9 Đề nghị về giáo dục đại học, 1996
- Các vấn đề tồn tại trong việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH - HĐH, 1997
- Giáo dục đại học “đại trà” và sự “phân tầng”, 1998
- Tấm áo mới cho mô hình ĐH quốc gia, 1998
- Về quy mô và chất lượng các trường ĐH của Mỹ, 1998
- Về thiết kế và tổ chức mạng lưới các trường đại học, 1999
- Vài ý kiến tản mạn về giảng dạy ở đại học, 1999
- Khuôn mặt mới của giáo dục đại học, 2000
- Một vài ý kiến về “Các giải pháp tổ chức lại ĐH quốc gia”, 2000
- Trắc nghiệm khách quan và đổi mới tuyển sinh ĐH, 2001
- Về chất lượng nền giáo dục đại học, 2001
- Dịch vụ GDĐH là một loại hàng hoá đặc biệt, 2001
- Về quy mô và chất lượng GDĐH Việt Nam, 2002
- 5 Đề nghị về tuyển sinh đại học, 2002
- Nghĩ về sự đồng thuận trong giáo dục, 2002
- Về chất lượng ở ĐH Quốc gia Tp. HCM, 2003
- 7 Đề nghị về “chương trình khung” giáo dục đại học, 2003
- 7 Đề nghị về những nội dung cần sửa đổi, bổ sung của Luật giáo dục, 2004
- Về cơ chế Hội đồng trường ở trường đại học, 2004
- 5 Đề nghị về nâng cao chất lượng và đánh giá chất lượng giáo dục đại học, 2004
- Ý tưởng dự án: Xây dựng chương trình hành động cải cách GD, 2004
- Tổ chức quản lý ở đại học, 2004
- Nhận dạng một số khoảng cách và sự khác biệt giữa thế giới và Việt Nam về giáo dục đại học trước xu thế toàn cầu hóa, 2004
- Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục, 2004
- Một phương án tài chính ở trường đại học tư thục có “mức lợi nhuận thích hợp”, 2004
- Chất lượng giáo dục đại học – cơ sở nào để đánh giá? 2004
- Giáo dục tổng quát trong các chương trình Giáo dục đại học, 2004
- Luận về “hàng hóa dịch vụ GDĐH” và công bằng xã hội, 2004
- Học phí đại học: một chính sách công phức tạp, 2004
- 5 Đề nghị về các giải pháp giáo dục đại học, 2004
- Đổi mới quản lý giáo dục đại học, 2004
- Giáo dục đại học mới là cấp bách, 2004
- Triết lý giáo dục còn chưa được làm rõ, 2005
- Luật giáo dục sửa đổi và WTO, 2005
- Ba vấn đề cấp bách của Giáo dục Đại học, 2005
- Ý kiến về dự thảo Đề cương chi tiết Đề án đổi mới Giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, 2005
- 3 Đề nghị về Luật giáo dục (sửa đổi) và đổi mới giáo dục, 2005
- Dịch vụ Giáo dục Đại học và cơ chế thị trường, 2005
- Khoa học, công nghệ và hoạt động nghiên cứu trong đại học, 2005
- 7 chính sách tài chính cho giáo dục đại học, 2005
- Liên quan và Hỗ trợ
- Quản lý và thủ tục “ra-quyết-định đa tiêu chí”, 1991
- Về việc đào tạo “thạc sĩ quản trị kinh doanh”, 1992
- Một vài ý kiến về tổ chức Tổng công ty, 1998
- Các quan chức ở Nhật được tuyển chọn như thế nào?, 2000
- Giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột ở Việt Nam, 2001
- Kiến thức đơn thuần không cứu vãn được chúng ta, 2003
- "Ai là người làm chủ thực sự các doanh nghiệp Nhà nước?", 2003
- Dự luật doanh nghiệp Nhà nước dưới góc nhìn của "tài chính doanh nghiệp", 2003
- Nhà giáo nhân dân Phạm Phụ: Người thích đứng ở biên giới, 2004
- 5 Đề nghị về việc lựa chọn các dự án quan trọng quốc gia, 2005
- 5 Câu hỏi cho chuyện “tăng học phí”, 2005
- Tăng học phí: Nhìn từ đại học mà chưa nhìn từ xã hội, 2005