Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam
Social SciencesGiáo dục tổng quát trong các chương trình Giáo dục đại học
Xã hội vẫn cho rằng, chất lượng của giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Nguyên nhân của thực trạng này có thể có rất nhiều, như: nguồn lực bị hạn chế, quản lý yếu kém, cách dạy - cách học lạc hậu v.v… Nhưng liệu có phải còn có một nguyên nhân khác, đó là sự thiếu vắng mảng “GD tổng quát” (GDTQ) trong các chương trình GDĐH?
GDTQ LÀ “GD VỀ NHẬN THỨC, ĐẠO ĐỨC VÀ XÚC CẢM”
Ở Châu Âu thời Trung cổ, triết lý của GDĐH được thể hiện qua “bộ ba”: Ngữ pháp, Thuật hùng biện/ Tu từ học (rheroric) và Logic. Sau đó đã bổ sung thêm “bộ bốn”: Số học, Hình học, Thiên văn và Âm nhạc để tạo cơ sở cho một chương trình cử nhân (CTCN) 4 năm, thường gọi là “Liberal Arts”. Từ đó đã hình thành một quan niệm: GDĐH là nền GD có chức năng chủ yếu là cung cấp cho người học một nền GD tổng quát (General/ Liberal Education) “nặng về tri thức thuần túy học vấn và văn hóa”. Mặt khác, từ nửa sau thế kỷ 19, với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, với nhu cầu chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, một quan niệm khác cũng đã được thiết lập: GDĐH là một nền GD có chức năng chủ yếu là đào tạo nghề nghiệp(ĐTNN) với “ tiêu điểm hướng vào việc chuẩn bị chuyên môn cho nguồn nhân lực”. Và “hai đường lối GD hoàn toàn khác nhau, có vẻ như mâu thuẫn với nhau”
Tuy nhiên từ những năm 50, 60 trở về sau, khi mà nền GDĐH ở các nước phát triển sớm đã từng bước chuyển sang nền GD cho số đông, hai đường lối GD trên như đã có một bước xích lại gần nhau với xu thế chung là: “Chúng không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau”, “phải có sự tích hợp có hiệu quả giữa hai đường lối đó qua nhận thức chung về việc phát triển tri thức độc lập, khả năng giải quyết vấn đề và tư duy phê phán”v.v… Trên thực tế, tùy thuộc vào truyền thống, giai đoạn, đặc điểm của từng nước, từng trường ĐH, từng CTCN, trọng số mảng GDTQ trong mỗi CTCN khá khác nhau và thường biến thiên khoảng từ 25% đến 50%.
Đương nhiên còn một câu hỏi lớn tiếp theo là, vậy thì mục đích, và từ đó là nội dung của GDTQ là gì? Lại cũng có rất nhiều quan niệm và nhiều định nghĩa đã được đưa ra. Có quan niệm: GDTQ được xem là để rèn luyện trí tuệ, phát triển phẩm chất đạo đức của sinh viên (SV) và cung cấp cho SV một nền GD cơ bản. Và quan niệm khác: GDTQ là để chuẩn bị cho cuộc sống của một công dân có trách nhiệm v.v… Gần đây nhất, trong bối cảnh của toàn cầu hóa kinh tế, của đa văn hóa, của giao tiếp toàn cầu…, Andrey Chrusky (2003) đã nói về GDTQ với một ý nghĩa mới hơn: “Mục đích của GDTQ là để xây dựng những con người có khả năng và khuynh hướng luôn cố gắng để đạt được sự thỏa thuận với nhau về những nội dung liên quan đến sự việc, nguyên lý và những hoạt động, thông qua quá trình thảo luận một cách có lý lẽ ”. Và theo một nghĩa rộng, GDTQ là “GD về nhận thức, đạo đức và xúc cảm” (Emotional education). Từ đó, nội dung của GDTQ thường bao gồm: a) Kỹ năng nhận thức và năng lực/ kỹ năng xã hội như: Thu thập dữ liệu, quan sát và phân tích, giải quyết vấn đề, thích nghi với môi trường mới, quan hệ xã hội v.v… b) Những nội dung liên quan đến luân lý, phẩm hạnh, đạo đức… và c) Những hiểu biết chung về triết học, kinh tế học, luật học, về Nhà nước , thiết chế, về lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật v.v… Đương nhiên, những nội dung này sẽ được lựa chọn để thích hợp cho từng loại CTCN và không chỉ được thể hiện qua một số chủ đề, một số môn học mà còn qua cách dạy – cách học ngay ở những môn có tính chất ĐTNN và cách tổ chức chương trình . Ví dụ, từng nhóm SV nhỏ có thể thực hiện một dự án nghiên cứu thực tế nào đó được tính tín chỉ ở dạng “cộng đồng học tập” (Learning Communities), học bên ngoài phòng học giữa thầy, trò và những người khác (fellow travellers), “làm để học” (learning by doing) v.v... Qua đó SV sẽ đồng thời có được rất nhiều loại kỹ năng nói trên.
ĐÀO TẠO NGHỀ NGHIỆP VÀ GD ĐẠI CƯƠNG
Trong khi đó, ở một số nước đang phát triển, kể cả Liên Xô trước đây, đặc biệt là ở một số nước mới giành được độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 và mới bắt đầu phát triển nền GDĐH của nước mình, GDĐH thường chỉ hướng theo đường lối GD thứ hai nói trên, chứcnăng chủ yếu của GDĐH là ĐTNN. Lý do chính đáng của xu thế này là phải phát triển nhanh nguồn nhân lực để kịp thời phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Về phía Nhà nước , xây dựng cơ sở hạ tầng cần phải có ngay những người kỹ sư, thiết lập hệ thống tài chính mạnh cần phải có ngay những cán bộ ngân hàng và kế toán, xây dựng hệ thống y tế cần phải có ngay những bác sĩ được đào tạo về y khoa hiện đại v.v… Về phía người dân, chi phí trực tiếp và gián tiếp cho GDĐH là một khoản chi phí lớn của gia đình và do đó phải sớm có nghề để sẵn sàng xin việc làm (Job-ready graduate) và nhanh chóng “hoàn vốn đầu tư” (David Bloom, 2003). Từ đó, CTCN cũng phải hướng đến chuyên môn hóa sớm ngay từ những năm học đầu và làm cho nội dung GDTQ trở thành rất mờ nhạt.
GDĐH Việt Nam có một bối cảnh phát triển rất tương tự với bối cảnh của các nước nói trên, lại còn có nhiều ảnh hưởng của nền GDĐH Liên Xô trước đây. Vì vậy nền GDĐH Việt Nam chủ yếu hướng vào việc đào tạo nguồn nhân lực, có tính chất ĐTNN, cũng là một điều dễ hiểu. Về mặt quan niệm, có thể thấy rõ xu thế đó trong việc đặt tên các trường ĐH: trường ĐH Tài chính, Kinh tế, Giao thông, Bưu chính Viễn thông v.v…, trong xây dựng danh mục ngành nghề đào tạo
VAI TRÒ CỦA GDTQ TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
Ở một số nước, trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn có loại trường ĐH chuyên đưa ra những CTCN có tính chất là cử nhân về GDTQ. Ở Mỹ có loại trường ĐH mang tên là “Liberal Arts” và số cử nhân về GDTQ năm 1995 chiếm đến 40% số bằng cấp về cử nhân
Nhờ cách tổ chức như vậy, nhiều nước đã có được một lực lượng lao động có trình độ cao nhưng hết sức đa dạng, hết sức linh hoạt. Và cũng nhờ vậy, mới có được những con người có GDTQ tốt, mà theo một khảo sát về “GDĐH và xã hội” gần đây (2003) đã mô tả, là người: “(1) Có khả năng nghĩ, viết và truyền đạt một cách rõ ràng, thuyết phục, hiệu quả và có tính phê phán; (2) Am hiểu cách thu nhận kiến thức và cách nhận thức về vũ trụ, xã hội và chính bản thân mình; (3) Có kiến thức rộng về các nền văn hóa khác và thời đại khác; (4) Có khả năng ra-quyết-định có tính đến những yếu tố lịch sử với một tầm nhìn rộng; (5) Biết suy nghĩ một cách có hệ thống về các vấn đề luân lý, phẩm hạnh, đạo đức v.v… và (6) Có kiến thức tương đối sâu về một lĩnh vực nào đó”.
Có những con người như vậy, đất nước mới dễ có được những “Nhà hoạch định (quy hoạch)” bên cạnh những kỹ sư, có được những “Tổng công trình sư” (Generalists) bên cạnh những chuyên gia, trong tương lai mới có được những nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng và biết cân bằng những yếu tố xã hội, cân bằng giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân v.v… Từ nhận thức đó, trường ĐH quốc gia Singapore vừa qua cũng đã đưa ra một chương trình GDTQ mới cho SV của họ với kỳ vọng là: “SV của họ có thể so sánh được với SV của các trường ĐH ở các nước đã phát triển”.
Nói riêng về các CTCN để trực tiếp ĐTNN, ngay ở Úc, nơi có nền GDĐH có “khuynh hướng chú trọng việc đào tạo nguồn nhân lực về mặt chuyên môn” hiện nay (2002) vẫn đang đặt ra câu hỏi: “Phải chăng có một điểm giới hạn mà nếu vượt qua nó do quá nhấn mạnh đến việc ĐTNN chuyên môn thì nền GDĐH sẽ đánh mất bản chất đặc trưng và có lẽ cả ý nghĩa của nó?” 1. Câu hỏi này đã muốn trả lời rằng, ngay trong các CTCN về ĐTNN cũng cần phải có mảng GDTQ theo ý nghĩa của đường lối GD thứ nhất. Tuy nhiên, trong ĐTNN ở bậc cử nhân ngày nay, yêu cầu cũng phải đào tạo người SV để họ có được cả 3 loại kỹ năng, cả “kỹ năng nhận thức” (Cognitive skills) và “kỹ năng xã hội” (Social skills) chứ không chỉ là “kỹ năng chuyên môn” (Professional skills). Các CTCN về ĐTNN của Việt Nam hiện nay dường như chỉ tập trung vào mảng “kỹ năng chuyên môn”.
Chính vì vậy, với nguồn nhân lực của Việt Nam đang có, chúng ta đang rất băn khoăn về: a) Khả năng viết, trình bày, giao tiếp; b) Khả năng làm việc nhóm; c) Khả năng giải quyết vấn đề; d) Thiếu cái nhìn tổng thể và biết cân bằng giữa lợi ích của cộng đồng và lợi ích cá nhân, e) Khả năng tranh luận và tư duy phê phán, sáng tạo; f) Thiếu “Khuynh hướng muốn biết” để “học tập suốt đời”
Tóm lại, phải chăng trong các chương trình GDĐH ở Việt Nam hiện nay còn thiếu mảng GDTQ và do vậy, cần phải sớm tiến hành nghiên cứu để bổ sung và hiệu chỉnh? Phải chăng chỉ có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực trước xu thế toàn cầu hóa cũng như việc có được những người công dân có trách nhiệm trong tương lai?
- Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam
- Lời nói đầu
- Lời giới thiệu
- Các chữ viết tắt
- Giáo dục đại học
- 9 Đề nghị về giáo dục đại học, 1996
- Các vấn đề tồn tại trong việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH - HĐH, 1997
- Giáo dục đại học “đại trà” và sự “phân tầng”, 1998
- Tấm áo mới cho mô hình ĐH quốc gia, 1998
- Về quy mô và chất lượng các trường ĐH của Mỹ, 1998
- Về thiết kế và tổ chức mạng lưới các trường đại học, 1999
- Vài ý kiến tản mạn về giảng dạy ở đại học, 1999
- Khuôn mặt mới của giáo dục đại học, 2000
- Một vài ý kiến về “Các giải pháp tổ chức lại ĐH quốc gia”, 2000
- Trắc nghiệm khách quan và đổi mới tuyển sinh ĐH, 2001
- Về chất lượng nền giáo dục đại học, 2001
- Dịch vụ GDĐH là một loại hàng hoá đặc biệt, 2001
- Về quy mô và chất lượng GDĐH Việt Nam, 2002
- 5 Đề nghị về tuyển sinh đại học, 2002
- Nghĩ về sự đồng thuận trong giáo dục, 2002
- Về chất lượng ở ĐH Quốc gia Tp. HCM, 2003
- 7 Đề nghị về “chương trình khung” giáo dục đại học, 2003
- 7 Đề nghị về những nội dung cần sửa đổi, bổ sung của Luật giáo dục, 2004
- Về cơ chế Hội đồng trường ở trường đại học, 2004
- 5 Đề nghị về nâng cao chất lượng và đánh giá chất lượng giáo dục đại học, 2004
- Ý tưởng dự án: Xây dựng chương trình hành động cải cách GD, 2004
- Tổ chức quản lý ở đại học, 2004
- Nhận dạng một số khoảng cách và sự khác biệt giữa thế giới và Việt Nam về giáo dục đại học trước xu thế toàn cầu hóa, 2004
- Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục, 2004
- Một phương án tài chính ở trường đại học tư thục có “mức lợi nhuận thích hợp”, 2004
- Chất lượng giáo dục đại học – cơ sở nào để đánh giá? 2004
- Giáo dục tổng quát trong các chương trình Giáo dục đại học, 2004
- Luận về “hàng hóa dịch vụ GDĐH” và công bằng xã hội, 2004
- Học phí đại học: một chính sách công phức tạp, 2004
- 5 Đề nghị về các giải pháp giáo dục đại học, 2004
- Đổi mới quản lý giáo dục đại học, 2004
- Giáo dục đại học mới là cấp bách, 2004
- Triết lý giáo dục còn chưa được làm rõ, 2005
- Luật giáo dục sửa đổi và WTO, 2005
- Ba vấn đề cấp bách của Giáo dục Đại học, 2005
- Ý kiến về dự thảo Đề cương chi tiết Đề án đổi mới Giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, 2005
- 3 Đề nghị về Luật giáo dục (sửa đổi) và đổi mới giáo dục, 2005
- Dịch vụ Giáo dục Đại học và cơ chế thị trường, 2005
- Khoa học, công nghệ và hoạt động nghiên cứu trong đại học, 2005
- 7 chính sách tài chính cho giáo dục đại học, 2005
- Liên quan và Hỗ trợ
- Quản lý và thủ tục “ra-quyết-định đa tiêu chí”, 1991
- Về việc đào tạo “thạc sĩ quản trị kinh doanh”, 1992
- Một vài ý kiến về tổ chức Tổng công ty, 1998
- Các quan chức ở Nhật được tuyển chọn như thế nào?, 2000
- Giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột ở Việt Nam, 2001
- Kiến thức đơn thuần không cứu vãn được chúng ta, 2003
- "Ai là người làm chủ thực sự các doanh nghiệp Nhà nước?", 2003
- Dự luật doanh nghiệp Nhà nước dưới góc nhìn của "tài chính doanh nghiệp", 2003
- Nhà giáo nhân dân Phạm Phụ: Người thích đứng ở biên giới, 2004
- 5 Đề nghị về việc lựa chọn các dự án quan trọng quốc gia, 2005
- 5 Câu hỏi cho chuyện “tăng học phí”, 2005
- Tăng học phí: Nhìn từ đại học mà chưa nhìn từ xã hội, 2005