GIÁO TRÌNH

Triết học Mác - Lênin

Science and Technology

Khái lược lịch sử triết học trước Mác

Tác giả: Trần Thảo Nguyên

Triết học phương đông cổ trung đại

Triết học Ấn Độ cổ trung đại.

Điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm về tư tưởng triết học Ấn độ cổ, trung đại.

Điều kiện kinh tế-xã hội:

* Điều kiện tự nhiên:

Ấn Độ cổ trung đại là một lục địa lớn ở phía nam châu Á, có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: vừa có núi cao lại vừa có biển rộng; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy nóng bức...

* Điều kiện kinh tế-xã hội:

+ Đặc điểm nổi bật về điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế-xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”.

+ Trong xã hội Ấn Độ cổ, trung đại đã phân hóa và tồn tại dai dẳng bốn đẳng cấp lớn: tăng lữ (Bràhman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vai’sya) và tiện nô (K’sudla). Ngoài sự phân biệt đẳng cấp, xã hội Ấn Độ cổ đại còn có sự phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo.

* Về văn hóa: người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được những kiến thức phong phú về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, đã biết quả đất xoay tròn và tự xoay xung quanh trục của nó. Ở đây, toán học cũng xuất hiện rất sớm. Từ thời đó họ đã phát minh ra số thập phân, biết đại số, biết lượng giác, biết phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học, ở đây đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng cây thuốc, bằng thuật châm cứu, chủng đậu, ngoại khoa, ..v.v..

Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ, trung đại là thường mang dấu ấn sâu đậm về mặt tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh và có yếu tố thần bí.

Triết học Ấn Độ cổ đại được chia ra làm hai phái: chính thống và không chính thống.

Phái chính thống (àstika) là phái thừa nhận kinh Vêda gồm có: Sàmkhya, Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nỳaya và Vai’sesika.

Phái không chính thống hay tà giáo (nàstika) là phái không thừa nhận kinh Vêda gồm có: Jaina, Lokàyata và Buddha (phật giáo).

Đặc điểm của triết học Ấn độ cổ đại

Thứ nhất: Nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tôn giáo, triết học có sự đan xen với tôn giáo, các quan niệm triết học, kể cả các quan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền bí của kinh Vêda, các quan niệm hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trực quan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời xen lẫn cái thần tiên, cõi niết bàn...

Tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “ giải thoát”, tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ (Át man với Brahman).

Thứ hai: Triết học Ấn Độ cổ trung đại thường tôn trọng quá khứ và có khuynh hướng phục cổ:

+ Đa số các hệ thống triết học đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Vê da, lấy các tư tưởng trong kinh Vê da làm điểm xuất phát.

+ Các luận thuyết triết học về sau thường dựa vào các luận thuyết triết học có trước và tuyên bố sự lệ thuộc vào hệ thống triết học có trước.

+ Các nhà triết học sau chỉ là bảo vệ, lý giải, hoàn thiện thêm các quan niệm ban đầu

Thứ ba: Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số trường phái triết học xoay quanh vấn đề “tính không” đem đối lập “không” với “có”, quy cái “có” về cái “không” thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao.

Các tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái triết học

Các trường phái triết học chính thống

Một là: Trường phái Sàmkhya:

* Theo ngôn ngữ Ấn độ cổ đại Samkhya là người đếm, người tính toán. Phái này đặt cho mình mục đích nhận thức đúng hiện thực bằng cách tính đếm các khách thể và là phương tiện cơ bản để nhận thức.

* Những tư tưởng của phái Sàmkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Đây là trường phái triết học đi sâu vào cặp nhân-quả, từ đó họ đưa ra những luận điểm nhân quả là quá trình liên tục. Theo họ, kết quả đã tiềm ẩn trong nguyên nhân; bởi vậy, nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật của thế giới với tính cách là nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) - một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được.

* Bất kỳ vật thể nào trong thế giới cũng đều là kết quả của sự thống nhất, hợp nhất, chuyển hoá, tác động liên hệ của ba yếu tố:

+ Sattva: nhẹ, trong sáng, thuần khiết, tươi vui. + Rajas: kích thích, động, linh hoạt. + Tama: tính ỳ, thụ động, nặng.

Khi sự cân bằng của ba yếu tố này bị phá vỡ thì nó biến hoá không ngừng, phát triển trong không gian và thời gian, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, do đó, nó chính là nguyên nhân tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên

* Những nhà tư tưởng của phái Sàmkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố Purusa - yếu tố tinh thần mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hóa vào yếu tố vật chất.

Hai là: Trường phái Mimànsà

* Xuất phát điểm của nó chủ yếu dựa vào bộ kinh Vêda và Upanishad.

* Mục đích cơ bản là chú giải, diễn tả những phương pháp cúng bái, lễ nghi, tế lễ và thực hiện các quy tắc xã hội theo bổn phận của mỗi người một cách cụ thể, chặt chẽ.

* Các nhà triết học Mimànsà sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Họ cho rằng, không tìm được bằng chứng nào về sự tồn tại của thần. Cảm giác không thể nhận ra thần mà các nguồn khác của tri thức thì suy cho cùng cũng dựa trên cảm giác.

Họ chống lại quan điểm triết học duy tâm vì nếu tin rằng thế giới hiện thực là không tồn tại, chỉ do ý thức sinh ra thì nghi lễ mà Mimànsà coi trọng và hiệu quả của nó trở nên vô nghĩa.

* Những nhà triết học Mimànsà hậu kỳ thừa nhận sự tồn tại của thần.

Ba là: Trường phái Vedànta

Vêdànta chính là:

+ Sự hoàn thiện kinh Vêda.

+ Là học thuyết triết học Tôn giáo, ra đời trên cơ sở tư tưởng của Upanishad.

+ Trên cơ sở chú giải kinh Vêda và Upanishad, trường phái Vêdànta đưa ra những kết luận triết lý siêu hình biện giải duy tâm về nguyên nhân hình thành vũ trụ và vạn vật.

Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tức Thượng đế Brahman.

Bốn là: Trường phái Yoga

Là trường phái có tính cực đoan của chủ nghĩa duy tâm, biểu hiện khuynh hướng suy thoái về tư tưởng của xã hội Ấn Độ trong thời kỳ cổ điển.

Yoga có nghĩa là “ sự liên kết” hay “ hợp nhất tâm thể về một khối”. Nội dung cơ bản là đề cập tới những phương pháp tu luyện mà người tu hành phải thực hiện, nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự tác động của các giác quan và sự giàng buộc của thể xác, của thế giới vật chất để trở nên trong sạch, để đạt dược sự hiểu biết siêu phàm, tối cao và vĩnh hằng.

Trường phái Yoga, Vedànta và Mimànsà đều có xu hướng giải quyết vấn đề nhân sinh quan theo chủ đích đạt tới sự “giải thoát” tối hậu: hòa đồng cái Tôi (Tiểu ngã) với cái vũ trụ (Đại ngã).

Năm là: Trường phái Nyàya - Vai’sesika

Đây là hai phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng, nhất là vào giai đoạn hậu kỳ của mỗi phái.

Những tư tưởng triết học căn bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và lôgic học.

* Thuyết nguyên tử:

- Bản nguyên của thế giới: đó là bốn yếu tố vật chất: đất - nước - lửa - gió (hay không khí). Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất chính là các Anu- hay còn gọi là nguyên tử. Đó là những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, sự kết hợp của các nguyên tử khác nhau sự tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên.

- Phái này còn cho rằng có sự tồn tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những nguyên tử vật chất, được gọi là Ya; mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn, v.v…

Để phối hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử. Năng lực này, phái Nyàya cho là thần Isvara, còn phái Vai’sesika thì gọi là năng lực vô hình, không thể dùng tư duy, ngôn ngữ để biện giải.

* Về nhận thức luận và lôgíc học

- Thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức..v.v. Thước đo duy nhất để kiểm tra tính chân lý của các tri thức là thực tiễn.

- Lôgíc: Hình thức biện luận được phái này đưa ra có thể gọi là “ngũ đoạn luận”, gồm năm mệnh đề:

1. Luận đề : Đồi có lửa cháy;

2. Nguyên nhân: Vì đồi bốc khói;

3. Bất cứ cái gì bốc khói đều có lửa cháy; thí dụ: bếp lò;

4. Suy đoán: đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy;

5. Kết luận: Do đó, đồi có lửa cháy.

Các phái Nyàya và Vai’sesika ban đầu có tư tưởng vô thần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại có thần và cho rằng thần đã dùng nguyên tử để xây dựng nên thế giới.

Các trường phái không chính thống Một là: Trường phái Jaina

Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với phật giáo. Người sáng lập trường phái này tên là Mahavira, còn có hiệu là Jaina (nghĩa là chiến thắng).

Trường phái này tự đặt cho mình nhiệm vụ là tìm ra con đường và phương tiện đưa lại sự giải thoát cho con người, nhưng lại phủ nhận sự tồn tại của Brahman (tinh thần vũ trụ).

* Về bản thể luận: Học thuyết triết học này đề cao thuyết tương đối, theo thuyết này:

+ Tồn tại đầu tiên là bất biến, vô thủy, vô chung, sự biến chuyển của vạn vật là không cùng. + Thế giới vạn vật vừa bất biến vừa biến chuyển. Cái bất biến, vĩnh hằng là vật chất; cái không bất biến, không vĩnh hằng là các dạng của vật chất, giống như đất sét không thay đổi, nhưng những cái bình nặn bằng đất sét thì luôn thay đổi.

* Về nhận thức luận: Jaina cho rằng nhận thức là sự phản ánh thế giới, phản ánh tính biến chuyển liên tục của thế giớiTôma.

Để nhận thức thế giới phải xây dựng và sử dụng hệ thống các khái niệm như là các công cụ đồng thời cũng là kết quả của sự nhận thức. Một số khái niệm chủ yếu như sau:

- Tồn tại - không tồn tại.

- Vừa tồn tại vừa không tồn tại.

* Jaina tin vào thuyết “luân hồi” và “nghiệp”. Để giải thoát luân hồi, con người cần phải tu luyện theo luật Ahimsa ( không sát sinh, không bạo lực, sống khổ hạnh...)

Hai là: Trường phái Lokàyata

Lokàyata là trường phái duy vật tương đối triệt để và vô thần.

* Về bản thể luận: phái này cho rằng: mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tạo ra bởi bốn yếu tố vật chất (đất - nước - lửa - không khí). Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật, kể cả con người.

+ Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp với những phương thức, tỷ lệ, trật tự khác nhau của những yếu tố bản nguyên đấy.

+ Không có linh hồn bất tử. bản thân linh hồn hay ý thức cũng do sự liên kết của các nguyên tử vật chất theo cách thức đặc biệt, vật chất sinh ra ý thức cũng như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính chất mà gạo không có là làm người ta say. Từ đó, phái Lokàyata phủ nhận thuyết “luân hồi” và “nghiệp”, chế giễu “sự giải thoát”. Họ cho con người không phải gì khác là thân thể có ý thức, khi con người chết thì linh hồn cũng mất.

* Về lý luận nhận thức, phái này có khuynh hướng duy vật theo lập trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất, xác thực của nhận thức. Các kết luận, các suy lý chỉ có giá trị trong mối liên hệ với thế giới một cách kinh nghiệm. Họ phủ nhận tính chân xác của những tri thức lý tính.

Ba là: Triết học Phật giáo (Buddha)

Triết học Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo điển hình thuộc phái không chính thống và có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới.

Phật giáo được hình thành vào thế kỷ VI tr.CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa). Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau, nhưng phổ biến nhất là Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) còn có hiệu là Buddha (phật).

Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất phát, thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân - quả. Những tư tưởng này được thể hiện trong bộ “ tam tạng”- bộ kinh điển của đạo phật. Đó là:

1. Tạng kinh: ghi lời phật dạy.

2. Tạng luật: Gồm các giới luật của đạo phật.

3. Tạng luận: gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải bình chú về giải pháp của các cao tăng học giả về sau.

* Về giới tự nhiên

+ Phật giáo cho rằng thế giới có bản nguyên đầu tiên là vật chất. Thế giới vận động một cách “vô thường”, “sắc sắc”, “không không". Sinh, trụ, dị, diệt. Do đó, phật giáo có thế giới quan.

+ Phật giáo cho rằng vũ trụ là vô thuỷ vô chung, nếu đi tìm nguyên nhân thứ nhất của cũ trụ thì uổng công vô ích, vì khi vất vả đi tìm nguyên nhân thứ nhất, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng trước nguyên nhân thứ nhất lại có một nguyên nhân nữa, rồi cứ thế xoay vần mãi không thôi, sẽ mãi mãi không tìm ra nguyên nhân thứ nhất cố định, bất biến.

Phật giáo cho rằng vạn vật vũ trụ là do “ nhân duyên hội tụ” lại mà thành, không có vật nào lại tồn tại mãi mãi mà không biến đổi, nhân duyên hợp thì sinh, nhân duyên rời là diệt.

+ Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ nhân duyên nên thành ra có (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại ngũ uẩn đó là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác) tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy, thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).

+ Phạm trù “vô thường” nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh - trụ -dị - diệt. Vậy thì “có có” - “không không” luân hồi bất tận; “thoáng có”, “thoáng không”, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.

* Về nhân sinh quan

Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý về nhân sinh, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng “luân hồi”, “nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana).

Nội dung triết học nhân sinh của phật giáo tập trung ở bốn luận đề (“tứ diệu đế”), được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại.

Luận đề thứ nhất: Khổ đế, là luận điểm khái quát về thực trạng của đời người, theo triết lý nhân sinh của Phật giáo thì cuộc sống nhân có 8 nỗi khổ trầm luân bất tận mà từ bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh; Lão; Bệnh;Tử (chết); Thụ biệt ly (yêu thương nhưng phải chia lìa ); Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau); Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được); Ngũ thụ uẩn( 5 yếu tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ)

Luận đề thứ hai: tập đế hay nhân đế: là luận đề lý giải về những nguyên nhân gây đau khổ. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên):

1. Vô minh: là không sáng suốt, ngu tối.

2. Hành: là ý muốn thúc đẩy hành động, tạo ra nghiệp lành-dữ.

3. Thức: là nhận thức, ý thức phân biệt cái tâm trong sáng, cân bằng với cái tâm ô nhiễm, mất cân bằng.

4. Danh sắc: là sự thống nhất, kết hợp cái vật chất (sắc) và cái tinh thần (danh) để sinh ra 6 cơ quan cảm giác.

5. Lục nhập: quá trình thâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan.

6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa các lục căn với lục trần (giác quan với thế giới bên ngoài).

7. Thụ: là sự cảm thụ (vui, buồn, sướng, khổ).

8. Ái: là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng, từ đây tạo động cơ thúc đẩy thân,khẩu, ý để tạo nghiệp mới.

9. Thủ: giữ lấy, chiếm đoạt cái mà mình yêu thích.

10. Hữu: là sự tồn tại để hưởng cái mà mình chiếm đoạt được.

11. Sinh: đã có nghiệp (hữu) tức là nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả.

12. Lão, Tử: đã có sinh ắt có già và chết.

Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nỗi khổ đau nhân loại. Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” (avidya) là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân đầu tiên.

Luận đề thứ ba: Diệt đế, cho rằng có thể tiêu diệt được nỗi khổ, đạt tới trạng thái Niết bàn. Khái niệm niết bàn của triết học phật giáo được hiểu theo nghĩa đó là trạng thái con người đã thoát khỏi khổ đau.

Luận đề thứ tư:Đạo đế, chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo):

1.Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh, là trực kiến của chính bản thân mình).

2. Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn, muốn vậy phải gạt bỏ “ vô minh”).

3. Chính ngữ (giữ lời nói chân chính, ngay thẳng ).

4. Chính nghiệp (giữ đúng trung nghiệp, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm).

5. Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng, tuân theo các điều răn).

6. Chính tinh tiến (rèn luyện không mệt mỏi).

7. Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát).

8. Chính định (tập trung tư tưởng cao độ, làm cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao).

(Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là: Giới - Định -Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ Bát nhã).

Tóm lại: Phật giáo là một trào lưu triết học lớn ở Ấn Độ cổ đại, ở giai đoạn đầu, học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng, nó nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bác ái. Chính vì thế, ngay từ đầu học thuyết ấy đã đi sâu vào lòng người, truyền bá một cách nhanh chóng và rộng rãi không chỉ ở Ấn Độ mà ở nhiều nước khác. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn của triết học phật giáo là lý giải con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau của cuộc đời có tính chất duy tâm và ảo tưởng.

TỔNG KẾT.

Triết học Ấn Độ cổ trung đại là một trong hai nền tư tưởng lớn của phương Đông, có một vai trò rất lớn trong quá trình phát triển tư tưởng văn hoá vùng châu Á.

Một là: So với các nền triết học khác, triết học Ấn Độ cổ trung đại là một trong những trào lưu triết học ra đời và phát triển rất sớm, là một trong những cội nguồn, cái nôi của triết học thế giới nói riêng và của nền văn minh nhân loại nói chung.

Hai là: Với bề dày thời gian hàng ngàn năm ấy, nền triết học Ấn độ cổ trung đại đã làm nên một vóc dáng đồ sộ, chứa đựng những tư tưởng quý báu của nhân loại. Tính đồ sộ của nó không chỉ ở quy mô, số lượng của các tác phẩm để lại, ở sự đa dạng của các trường phái mà còn ở sự phong phú trong cách thể hiện và đặc biệt là sự sâu rộng về nội dung phản ánh.

Sự phong phú về nội dung: các trường phái đều đề cập tới nhiều vấn đề lớn của triết học như: vũ trụ quan, nhân sinh quan và phép biện chứng mà tiêu biểu là những quan điểm về bản thể luận, về tính vô cùng vô tận của thế giới, về biện chứng của quá trình biến đổi vũ trụ và nhân sinh, và đặc biệt là con người với đời sống tâm linh và con đường giải thoát.

Sự đa dạng về hình thức: văn xuôi, văn vần, thơ ca, bằng các tác phẩm viết ra bằng chữ, và còn bằng cả hình thức truyền miệng.

Ba là: Triết học Ấn Độ cổ trung đại đặc biệt chú ý tới vấn đề con người: hầu hết các trường phái triết học thường tập trung giải quyết vấn đề “ nhân sinh” và con đường “ giải thoát”, nhưng nguyên nhân của sự đau khổ không phải trong đời sống kinh tế-xã hội mà ở trong ý thức, trong sự “ vô minh”, sự “ ham muốn” của con người, vì vậy con đường giải thoát đều mang sắc thái duy tâm, yếm thế.

Bốn là: Các quan điểm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình không được thể hiện một cách rạch ròi, tách bạch nhau mà chúng thường đan xen nhau, xen kẽ lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển. Chính sự đan xen đó một mặt tạo ra “ vẻ đẹp” thâm trầm, uyển chuyển của triết học Ấn Độ cổ trung đại, mặt khác, tạo ra lực cản không nhỏ đối với sự phát triển của nền triết học ấy.

Tóm lại: Triết học Ấn Độ cổ trung đại là một nền triết học lớn của phương Đông. Nó để lại nhiều tư tưởng quý báu cho nhân loại, khiến cho nhiều thế hệ các nhà triết học của các dân tộc đã, đang và sẽ hướng tới. Tuy nhiên, nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc nhiều quan niệm thần bí và tôn giáo. Đây là những vấn đề mà khoa học hiện đại còn tiếp tục nghiên cứu để khẳng định hay bác bỏ.

Triết học Trung Hoa cổ đại

Điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm của triết học Trung hoa cổ đại.

Điều kiện kinh tế-xã hội :

Trung Hoa thời cổ là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN kéo dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN.

Trong thời kỳ thứ nhất: Gồm các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và Tây Chu:

Bắt đầu từ khoảng thế kỷ XXI tr.CN, kết thúc vào khoảng thế kỷ thứ XI tr.CN với sự kiện nhà Chu đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên tới đỉnh cao.

Trong thời kỳ thứ nhất này, những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí là thế giới quan thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ.

Thời kỳ thứ hai (thường gọi là thời Xuân Thu-Chiến Quốc) là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến với những đặc điểm cơ bản sau đây:

+ Đất đai trước đây thuộc về nhà Vua thì nay bị một tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu.

+ Một sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản bắt đầu xuất hiện.

+ Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn: sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi phải giải thể chế độ nô lệ thị tộc, hình thành xã hội phong kiến.

Trong tình hình đó, một loạt học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia minh tranh” ( trăm nhà đua tiếng). Điều đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại.

Đặc điểm của triết học Trung hoa cổ, trung đại:

* Thứ nhất: Triết học Trung hoa cổ, trung đại là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.

* Thứ hai là các triết gia Trung hoa đều xem thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, là vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội, do đó, triết học Trung hoa cổ, trung đại là nền triết học chính trị đạo đức, đây cũng là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung hoa.

* Thứ ba là nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Khi khảo cứu các vận động của tự nhiên, xã hội và nhân sinh, đa số các nhà triết học TiềnTần đều nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề.

* Thứ tư là triết học dựa trên tư duy trực giác, phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức. Vì vậy, các khái niệm và phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy luận lô gích, làm cho triết học Trung hoa cổ trung đại thiếu đi những phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ thống lý luận khoa học.

Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung hoa cổ, trung đại

Thuyết Âm- Dương, Ngũ hành

Một là:Tư tưởng triết học về Âm - Dương

Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau: Âm và Dương.

+ “Âm” là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, đàn bà v.v.

+ “Dương” là phạm trù đối lập với “Âm”, phản ánh khái quát những tính chất phổ biến như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía trái, đàn ông .v.v..

+ Hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản sau:

- Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.

-Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Do đó, trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, Âm - Dương có động mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh- hoá hoá → nguyên nhân căn bản của sự biến đổi là giao cảm của Âm-Dương.

Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng cho thái cực), trong đó được chia thành hai nửa đối lập (đen - trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu tượng cho nguyên lý: trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.

- Sự khái quát sơ đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khởi”.

Để giải thích lịch trình biến hoá trong vũ trụ, người Trung Hoa đã đưa ra cái Lôgic tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm -Thiếu Dương - Thái Âm) và tứ tượng sinh Bát quái (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn -Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).

Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm kinh dịch, Tinh hoa của kinh dịch là dịch, tượng, từ với nguyên lý Âm-Dương, cụ thể:

+ “ Dịch”: là sự biến hoá, phát triển của vạn vật ( biến dịch ) với quy luật là: không rõ ràng → rõ ràng → sâu sắc → kịch liệt→ cao điểm → mặt trái. Nguyên nhân căn bản tạo nên sự biến hoá của sự vật là sự giao cảm của Âm-Dương trong thái cực.

+ “ Tượng”: chỉ sự biến dịch của vạn vật, biểu hiện qua các quẻ.

+ “ Từ”: là biểu thị tượng về phương diện lành hay dữ, động hay tĩnh.

+ “ Nguyên lý Âm-Dương” nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực, là nguyên nhân căn bản tạo nên sự biến hoá trong vũ trụ.

Hai là: những tư tưởng triết học về Ngũ hành

* Tư tưởng triết học về ngũ hành có quan hệ với việc sùng bái của con người với 5 loại vật chất của tự nhiên cần thiết, đó là: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, năm loại vật chất ấy luôn vận động biến đổi, và khi tác động vào các giác quan của con người cho ta những biến thái về tâm sinh lý:

* Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối, mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh -khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau:

+Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hoả; Hỏa sinh Thổ;.v.v.

+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau); Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc; và Mộc khắc Thổ;.v.v..

+ Gianh giới tương sinh, tương khắc là tương đối.

+ Tương sinh, tương khắc là quy luật chung của sự vận động và biến hoá.

+ Là hai điều kiện không thể thiếu để duy trì thăng bằng tương đối trong hết thảy mọi vật.

Nho gia (thường gọi là Nho giáo)

Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI tr.CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551 tr.CN - 479 tr.CN). Sau khi Khổng Tử chết, nho gia chia làm tám phái, nhưng quan trọng nhất là phái Mạnh Tử và Tuân Tử với hai xu hướng khác nhau: duy tâm và duy vật, trong đó dòng nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.

Kinh điển của Nho giáo thường được kể tới là Tứ Thư (Luận Ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ Dịch, Xuân Thu).

Quan điểm về xã hội, về chính trị - đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:

* Về vũ trụ và giới tự nhiên

+ Khổng tử tin vào vũ trụ quan “dịch”, tin vào sự vận hành biến hoá không ngừng của sự vật, cuộc vận hành ấy có trật tự, có hoà điệu, mà nguyên nhân của trật tự và hoà điệu ấy con người không thể cưỡng lại được, nên Khổng Tử gọi đó là “ thiên mệnh” , ông cho “Trời” có ý chí làm chúa tể của vũ trụ, chi phối mọi sự biến hóa cho hợp lẽ điều hoà. Tin vào mệnh trời, Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là điều kiện để trở thành người hoàn thiện.

+ Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo nhiều hơn là tôn giáo. Khổng Tử cũng cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối đời sống của con người, ông phê phán sự mê tín quỷ thần.

* Quan niệm về chính trị- đạo đức

Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những nền tảng của xã hội, trong đó quan hệ quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con và chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo “tôn ty trên - dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.

Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh, nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Đó chính là thuyết chính danh ( theo Khổng tử chỉ có một lối để phục hưng trật tự xã hội là thu xếp thế nào để cho vua ở địa vị của vua, thần ở địa vị của thần, dân ở địa vị của dân, như vậy thì vật nào ở địa vị chính danh của vật đó, trong xã hội ai cũng thực hiện đúng chính danh của mình thì xã hội ổn định).

Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương tiện chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại đồng”. Nền giáo dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người, mà chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu, v.v.. đều là những biểu hiện của Nhân.

Thứ tư, Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề bản chất con người.

+ Mạnh Tử: Theo ông “bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính của con người từ khi mới sinh: Nhân, Nghĩa, Lễ…Do đó, ông đề cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.

+ Tuân Tử lại coi bản tính người vốn là ác. Mặc dù bản tính con người là ác, nhưng có thể giáo hóa thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín…).Do đó, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước là kết hợp Nho gia với Pháp gia.

So với các học thuyết khác, Nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống).

Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:

Một là, hệ thống hóa những quan điểm và chuẩn mực hóa những quan điểm triết học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến, vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.

Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng những quan điểm triết hoc của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia, v.v.. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai Phật giáo. Sự kết hợp những tư tưởng triết học của Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).

Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam:

Nho giáo vào nước ta từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của tư tưởng truyền thống Việt Nam và Phật giáo. Tư tưởng của Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực:

+ Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nho giáo đã có công trong việc đào tạo tầng lớp nho sỹ Việt Nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như: Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm... Nho giáo hướng nhân dân vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo nhân - nghĩa - lễ - trí - tín, ham học hỏi để phò vua giúp nước. Ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự của xã hội phong kiến Việt Nam.

+ Mặt tiêu cực: Nho giáo góp phần không nhỏ vào việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến, kìm hãm quan hệ kinh tế tư bản phát triển ở nước ta. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng chuyên quyền độc đoán. Nho giáo không khuyến khích thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên... Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ và lạc hậu của nho giáo ở nước ta.

Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)

Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr.CN). Học thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến Quốc hoàn thiện và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau.

Quan điểm về Đạo :

- “Đạo” là bản nguyên của vạn vật - tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội nguồn của Đạo.

- “Đạo” là cái vô hình, hiện hữu, là cái “có”, song Đạo và hiện hữu không thể tách rời nhau mà trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại.

- “Đạo” là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu, nguyên lý ấy là “Đạo pháp tự nhiên”. Chính trong quan niệm về “Đạo” đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó.

Quan niệm về tính biện chứng:

- Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu).

- Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.

Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy, triết học của Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển.

Cốt lõi chủ thuyết chính trị - xã hội là luận điểm “Vô vi”.

Vô vi là khuynh hướng trở về với nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với đạo.Vô vi không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự nhiên của “Đạo”.

Về nhận thức luận: Lão tử đề cao tư duy trừu tượng, coi thường nghiên cứu cụ thể. Ông cho rằng” không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”.

Mặc gia

Phái Mặc gia do Mặc Tử tức Mặc Địch (khoảng 479 - 381 tr.CN) sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc đã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).

Về vũ trụ quan:

Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về “Phi Thiên mệnh”. Theo quan niệm này thì mọi sự giàu, nghèo, thọ, yểu… không phải là do định mệnh của Trời mà là do người, rằng nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan điểm khác với quan điểm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.

Về nhận thức luận

Về quan hệ danh thực, ông chủ trương “ lấy thực đặt tên”, đúng sai là dựa vào thực tế khách quan. Học thuyết “Tam biểu” của Mặc gia thể hiện rõ xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò kinh nghiệm, coi nó là bằng chứng chân xác của nhận thức.

Về tư tưởng nhân nghĩa

+ Nhân là kiêm ái, tức là thương yêu mọi người, không phân biệt đẳng cấp, thân sơ, trên dưới...yêu người như yêu mình, yêu người ngoài cũng như yêu người thân.

+ Nghĩa là lợi: làm lợi và trừ hại cho mọi người.

Thuyết “Kiêm ái” là một chủ thuyết chính trị - xã hội, mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ…trong học thuyết “Nhân”. Ông chủ trương mọi người thương yêu nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp…

Những người thuộc phái Mặc gia hậu kỳ đã phát triển những tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện nhận thức luận.

Pháp gia:

Người sáng lập phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (khoảng 280- 233 tr.CN).

Phái Pháp gia chú trọng vào những tư tưởng chính trị - xã hội và đề cao phép trị quốc bằng luật pháp. Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau đây:

- Thừa nhận tính khách quan và uy lực của những lực lượng khách quan mà ông gọi là “lý”. Đó là cái chi phối quyết định mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội.

- Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, cho rằng không thể có chế độ nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho xã hội. Ông đã phân tích sự tiến triển của xã hội làm ba giai đoạn chính: thời thượng cổ, thời trung cổ, và thời cận cổ. Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hôi.

- Chủ thuyết về tính người: ông cho rằng bản tính con người vốn là “ác”, tức là tính cá nhân vụ lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi…

Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông phản đối phép nhân trị, đức trị của Nho gia và phép “vô vi trị”của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm ba yếu tố tổng hợp: Pháp, Thế và Thuật.

Kết luận về triết học Trung Hoa cổ,trung đại

Nghiên cứu triết học Trung Hoa cổ, trung đại, chúng ta rút ra một số kết luận sau đây: Một là: Sự ra đời và phát triển của các học phái tư tưởng triết học Trung Hoa thường xuyên chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị. Điều này đặc biệt rõ nét trong thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc.

Sự chi phối này khiến cho các triết gia Trung Hoa đặc biệt quan tâm, suy tư, tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện trạng xã hội biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại. Điều này lý giải rõ trong các trường phái triết học họ đặc biệt quan tâm bàn về những vấn đề chính trị và đạo đức của xã hội và con người, chính vì vậy, thế mạnh của nền triết học Trung Hoa, đặc biệt là Trung Hoa cổ đại trước hết thể hiện trên lĩnh vực triết học trên lĩnh vực xã hội, chính trị và đạo đức. Đây là nội dung lớn nhất khi nghiên cứu về nội dung triết học Trung Hoa.

Hai là: Thời cổ đại Trung Hoa, các học phái triết học diễn ra trong một bối cảnh học thuật hết sức "tự do tư tưởng”. Có người gọi đây là thời kỳ “ trăm hoa đua nở” “ trăm nhà tranh luận” (bách gia chư tử, bách gia tranh minh). Đây là đặc điểm triết học riêng có thời cổ đại Trung hoa. Điều này hoàn toàn chấm dứt khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, và về cơ bản không tái diễn trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến trung đại sau này. Trong thời đại phong kiến Trung Quốc, nhìn chung, chỉ có Nho giáo giữ địa vị thống trị và chi phối trong lịch sử tư tưởng, một số tư tưởng của các học phái khác được các nho gia kế thừa trong việc củng cố học thuyết nho giáo.

Ba là: Về căn bản những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Hoa mang tính biện chứng sâu sắc, điển hình như học thuyết Âm dương- Ngũ hành.

Bốn là: Triết học Trung Hoa phát triển trong sự đan xen giữa các quan điểm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình.

Năm là: Các học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại thường không được trình bày dưới hình thức hệ thống lý luận lôgích như các tác phẩm triết học hiện đại. Ngay cả các bộ kinh điển được coi là rất có hệ thống của nho giáo (như tứ thư và ngũ kinh) về căn bản cũng là tập hợp các luận lý qua nhiều thời kỳ và có thêm những chú giải, làm rõ của người biên soạn.

Sáu là: Trong suốt chiều dài lịch sử hai nghìn năm phong kiến Trung Hoa, các học thuyết cổ đại thường được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, thừa nhận thuộc về trường phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập học thuyết mới.

Điều này khiến cho một số học giả phương Tây nhìn nhận triết học Trung Hoa nói riêng, phương Đông nói chung không có sự phát triển. Song thực ra khi kế thừa các nhà tư tưởng sau đã phát triển rất nhiều cho phù hợp với điều kiện lịch sử của thời đại họ.

Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam

Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là một bộ môn khoa học vừa mới ra đời đang đòi hỏi những sự tìm tòi và khám phá mới, những khái quát mới. Ở đây, bước đầu xin nêu lên một số nội dung cơ bản.

Những nội dung thể hiện lập trường duy vật và duy tâm

Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ phong kiến

Đây là cuộc đấu tranh thuộc một hình thái đặc biệt:

+ Không thành trận tuyến, không trải ra trên khắp mọi vấn đề.

+ Đó là sự mâu thuẫn trong bản thân thế giới quan của một “trường phái”, thậm chí trong mỗi nhà tư tưởng.

+ Lập trường duy vật hoặc duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, giữa linh hồn và thể xác, giữa lý và khí …Lập trường đó còn thể hiện trong việc giải quyết nguyên nhân và nguồn gốc tạo nên những sự kiện cơ bản của đất nước, xã hội và con người, như an nguy của quốc gia dân tộc, trị loạn của xã hội, hưng vong của các triều đại , vấn đề số mệnh và bản tính con người, vấn đề đạo trời và đạo người v.v..

Nội dung cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam

Dù là khách quan hay chủ quan, chủ nghĩa duy tâm ở Việt nam đều mang nặng màu sắc tôn giáo. Nó có nguồn gốc ở “Tam giáo” và tín ngưỡng dân gian cổ truyền .

Một là: Nếu trong Nho giáo “Thiên mệnh” (mệnh trời) là điều thường được nhắc đến trong lịch sử. Thì chủ nghĩa duy tâm chủ quan Phật giáo lại có quan niệm về “nghiệp” và “kiếp”, số mệnh con người không phải là do trời gây nên, mà là do mình làm ra, do “nghiệp” và “kiếp” đã được bản thân tạo ra từ quá khứ.

Hai là: Đối lập với quan điểm “mệnh trời” còn có quan điểm về “thời”. Với thời không còn bóng dáng của mệnh, không còn sự ám ảnh của ý chí một ông trời có nhân cách.

Ba là: Quan điểm của quần chúng nhân dân. Bằng sự quan sát hàng ngày, bằng kinh nghiệm cuộc sống và quan điểm thực tế, quần chúng nhân dân đã phản ứng lại các quan điểm duy tâm bằng kinh nghiệm của mình như “được làm vua, thua làm giặc”;

“Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”;

“Ăn trộm, ăn cướp thành phật, thành tiên, đi chùa đi chiền bán thân bất toại”; “Hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng không còn”.

Họ không có lý luận, để làm người ta phải ngẫm lại và hoài nghi với các luận điểm của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo.

Nội dung của tư tưởng yêu nước Việt Nam

Có thể nói sự phát triển tư tưởng yêu nước là sợi chỉ đỏ của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Yêu nước là một truyền thống lớn của dân tộc. Nhưng yêu nước có thể là một ý chí, một tâm lý, một tình cảm xã hội, đồng thời cũng có thể là những lý luận.

Những nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập

* Cộng đồng người Việt được hình thành sớm trong lịch sử, có tên là Việt; để phân biệt với nhiều tộc Việt ở miền nam Trung Quốc, nó được gọi là Lạc Việt.

* Nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập của người Việt là một quá trình. Nó bắt nguồn từ cuộc chiến đấu của họ để tự vệ và phát triển lên cùng với các cuộc chiến đấu đó:

+ Phải chứng minh được cộng đồng người Việt khác với cộng đồng người Hán và ngang hàng với cộng đồng người Hán như:

- Các nhà tư tưởng người Việt nêu lên rằng: Lạc Việt ở về phía Sao Dực, Sao Chẩn (các sao ở về phương Nam), khác với Hoa Hạ ở về phía Sao Bắc Đẩu (sao của phương Bắc), nên hai dân tộc người đó phải độc lập với nhau.

- Họ chứng minh rằng “Núi sông nước Nam thì vua nước Nam trị vì”. đó là định phận của sách trời (quan điểm của Lý Thường Kiệt) để chứng tỏ tính chất hiển nhiên không thể báo bỏ được của sự riêng biệt Việt, Hán.

* Trên lĩnh vực nhận thức lý luận, các nhà tư tưởng đã đi sâu hơn, khái quát cao hơn, toàn diện hơn về khối cộng đồng dân tộc Việt. Nguyễn Trãi là người đã thực hiện được sứ mệnh này. Trong Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã viết:

“ Như nước Đại việt ta từ trước.

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia.

Phong tục Bắc Nam cũng khác....”

Điều đó chứng minh rằng, cộng đồng tộc Việt có đủ các yếu tố: văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân tài, nên nó đã là một cộng đồng người của phương Nam, không thể phụ thuộc vào phương Bắc. Nhận thức đó của Nguyễn Trãi đã nêu lên được các yếu tố cần thiết làm nên một dân tộc, đã đặt cơ sở lý luận cho sự độc lập của dân tộc.

Lý luận trên của Nguyễn Trãi đạt tới đỉnh cao của quan niệm về dân tộc và dân tộc độc lập dưới thời kỳ phong kiến ở Việt Nam. Nó đã tạo nên sức mạnh cho cộng đồng tộc Việt trong cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược ở đầu thế kỷ XV và cả các giai đoạn lịch sử sau này. Nhưng khi phải hơn nửa thế kỷ sau, vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh mới tìm ra được lý luận cứu nước mới và Người đã làm cho khái niệm dân tộc và dân tộc độc lập có sắc thái mới ngang tầm thời đại mới.

Những quan niệm về Nhà nước của một quốc gia độc lập và ngang hàng với phương Bắc

* Trước khi người Hán đến, tộc Việt đã có nhà nước Văn Lang và Âu Lạc của mình.

* Người Hán đến, Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt, lãnh thổ của dân tộc Việt biến thành một bộ phận của tộc Hán. Người Việt đấu tranh chống lại sự thống trị của người Hán cũng có nghĩa là đấu tranh giành quyền tổ chức ra nhà nước riêng của mình, chế độ riêng của mình. Quyền xây dựng nhà nước riêng, chế độ riêng là mục tiêu hàng đầu của các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Cụ thể:

Xây dựng nhà nước trong lúc bấy giờ không thể không tính tới các yếu tố: quốc hiệu, quốc đô, đế hiệu, niên hiệu,…Làm sao để các danh hiệu đó vừa thể hiện được sự độc lập của dân tộc, vừa cho thấy sự bền vững, sự phát triển và sự ngang hàng với phương bắc. Cụ thể:

Quốc hiệu: sau khi quét sạch lũ trị phương Bắc, Lý Bí đã từ bỏ luôn các tên “Giao Chỉ”, “Giao Châu”, “Nam Giao”, “Lĩnh Nam”,.v.v. và đặt tên nước là Vạn Xuân. Tiếp đến nhà Đinh là Đại Cồ Việt, nhà Lý gọi là Đại Việt…

Tên hiệu của người đứng đầu trong nước cũng được chuyển từ Vương sang Đế để chứng tỏ sự độc lập và ngang hàng với hoàng đế phương Bắc, như Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Đinh Tiên Hoàng …

Kinh đô cũng được chuyển từ Cổ Loa đến Hoa Lư, rồi từ Hoa Lư đến Thăng Long nơi “Trung tâm bờ cõi đất nước…”.

Như vậy là đầu thời kỳ độc lập, Việt Nam - một quốc gia dân tộc phong kiến về mặt chính thể từ quốc hiệu, đế hiệu, đến niên hiệu, kinh đô,.v.v.. đều được nhận thức đầy đủ và ở đó mỗi tên gọi là một tư thế của sự độc lập, tự chủ tự cường.

Những nhận thức về nguồn gốc về động lực của cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước

Những quy luật đã được rút ra trong suốt những cuộc chiến đấu trường kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt nam là:

Thứ nhất: Phải coi trọng sức mạnh của cộng đồng để nó sẽ trở thành một sức mạnh vô địch. Các nhà chỉ đạo cuộc chiến tranh đã thấy rằng: để có sức mạnh cộng đồng, thì phải biết chú ý tới quyền lợi của mỗi con người.

Trần Quốc Tuấn yêu cầu: “Trên dưới một lòng, lòng dân không chia”, vì “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, nước nhà góp sức giặc tự bị bắt”, “có thu phục được quân lính một lòng như cha con thì mới dùng được”. Nguyễn Trãi nói: “Thết quân rượu hoà nước, dưới trên đều một dạ cha con”.

Tư tưởng này đến thời cận đại, được các nhà tư tưởng nêu lên là, có “hợp sức”, “hợp quần” thì mới có sức mạnh. Và đến Hồ Chí Minh, thời kỳ hiện đại, nêu lên thành nguyên lý “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”.

Thứ hai: Phải coi trọng vai trò của nhân dân, đây là một tư tưởng lớn trong ý thức dân tộc ở các nhà tư tưởng. Lý Công Uẩn nói: “Trên vâng mệnh dưới theo ý dân, dân thấy thuận tiện thì thay đổi”. Nguyễn Trãi nói: “Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”, “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến Hồ Chí Minh, thời đại ngày nay, thì quan niệm về dân đã được phát triển đến một trình độ cao hơn và mang một chất mới.

Lời nói tuy khác nhau, nhưng họ đều là những người yêu nước nhiệt thành, đều thấy cần phải nêu trách nhiệm đối với dân, phải bồi dưỡng sức dân.

Qua những điều trình bày trên cho thấy có một tư tưởng yêu nước Việt Nam khác biệt với tư tưởng yêu nước của các dân tộc khác. Nó được đúc kết bằng xương máu và bằng trí tuệ trong trường kỳ lịch sử của các cuộc đấu tranh cứu nước, dựng nước và giữ nước.

Những quan niệm về đạo đức làm người

Một trong những vấn đề được các nhà tư tưởng Việt Nam trong lịch sử đặc biệt quan tâm là “đạo” (có khi gọi là “đạo trời”, “đạo người”). Họ phải quan tâm đến “đạo” bởi nó là cơ sở tư tưởng để hành động chính trị, để đối nhân xử thế. Trong ba đạo truyền thống: Nho, Phật, Đạo thì sau thời kỳ Lý - Trần, người ta thường hướng về đạo Nho trước hết.

* Kẻ sĩ Việt Nam đều chọn con đường của đạo Nho và luôn đề cao đạo làm người của Nho, nhưng ở mỗi người một khác, các nhà yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm… thì thường phát huy những khái niệm nào đó của nhà Nho có sức diễn đạt được nội dung yêu nước, yêu dân, yêu con người và tin ở năng lực con người. Các nhà Nho khác thì chỉ chú trọng các khái niệm, các nguyên lý nói lên tính chất tôn ti trật tự và đẳng cấp khắc nghiệt trong Nho giáo. Do vậy, cũng đều là nhà Nho nhưng giữa họ có những lập trường triết học và chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

* Phật giáo là chỗ dựa tinh thần cho con người, và khi thất thế trên đường danh lợi, người ta lại tìm đến đạo của Lão - Trang. Do đó, thế giới quan Nho - Phật - Đạo thường là thế giới quan chung của Việt Nam nói chung và kẻ sĩ nói riêng.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta “Đạo” được biến thành biểu tượng của truyền thống yêu nước, thương nòi. Đã có biết bao tấm gương hy sinh để bảo vệ độc lập cho đất nước. Nhưng vì “đạo” đó là thế giới quan cũ, không giúp hiểu được xu thế của thời đại, không giúp hiểu rõ được kẻ thù của dân tộc, không chỉ ra được con đường hữu hiệu để cứu nước, vì vậy, lúc bấy giờ yêu “đạo” bao nhiêu thì càng ngậm ngùi bấy nhiêu. Vấn đề đặt ra cho thời kỳ này là phải có một “đạo” ngang tầm với thời đại. Đó là một trong những điều kiện để chủ nghĩa Mác - Lênin du nhập vào Việt Nam.

Những thành tựu đạt được về lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc là công lao của các nhà lãnh đạo đất nước, của các nhà lý luận trong lịch sử: họ đã vượt qua bao nhiêu khó khăn và hạn chế của thời đại và của bản thân để xây dựng nên lý luận sắc bén cho đất nước mình, nhất là trong lĩnh vực đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Nhưng khách quan mà nói, lý luận đó còn có nhiều hạn chế. Nó không chú trọng vấn đề nhận thức luận và phương pháp tư duy là những vấn đề quan trọng của triết học. Nó không dám trái với kinh điển của thánh hiền, không biết lấy thực tiễn đất nước để kiểm nghiệm chân lý, không biết lấy việc xây dựng lý luận cho mình làm mục tiêu phấn đấu: vì thế đã không tạo ra được những nhà triết học và những phái triết học riêng biệt.

Ngày nay, chúng ta đã được trang bị triết học Mác - Lênin - một triết học khoa học và cáchmạng của loài người, nhờ đó nhiều vấn đề thực tiễn của đất nước đã được nhận thức trên bình diện lý luận, và lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc Việt Nam đã có điều kiện chuyển sang một bước ngoặt mới.