Dinh dưỡng người
Science and TechnologyKhái niệm về các chất dinh dưỡng và thành phần lương thực thực phẩm
Protein
Năm 1816, Magendie đã chứng minh các thực phẩm chứa nitơ cần thiết cho sự sống-albumin. Năm 1838 nhà hoá học Hà Lan Mulden gọi albumin là protein.
Năm 1839 sự cân bằng nitơ đã được Boussingault thực hiện ở Pháp vì ông nhận thấy các loài động vật không thể sử dụng trực tiếp dạng nitơ vô cơ hoặc nitơ không khí mà phải ăn các thức ăn chứa các hợp chất có nitơ của thực vật và động vật để duy trì sự sống.
Sau đó mãi đến thế kỷ 20, bằng nhiều công trình nghiên cứu khác nhau người ta mới phát hiện ra protein của cơ thể không chỉ khác nhau về thành phần, trình tự các acid amin mà còn khác nhau cả về cấu trúc. Cũng chính vì vậy mà nó hoàn thành các chức năng đặc thù cho từng loại cơ thể.
Trong tất cả các tế bào động thực vật, sự phân chia bắt đầu từ nhân, nhân lại được tạo thành từ hai hợp chất có liên quan mật thiết với nhau là protein và acid nucleic. Chính vì thế mà các quá trình sống không thể có được nếu không có protein. Nói cụ thể quá trình dinh dưỡng không thể tiến hành được nếu không có protein hoặc thiếu vắng một trong các acid amin không thay thế.
Bệnh thiếu protein đã được người Pháp phát hiện từ năm 1929, gọi tên là bouffissure d’Annam, người Anh phát hiện ở Châu Phi năm 1932 gọi là kwashiorkor. Sau đó những bệnh suy dinh dưỡng do thiếu protein hoặc các acid amin không thay thế được phát hiện vào năm 1959, Jelliffe đã gọi bệnh suy dinh dưỡng năng lượng, protein hay protein-energy-malnutrition (PEM). Đây là loại bệnh còn tương đối nhiều ở các nước đang phát triển.
Lipid
Sự xác định hai cấu tử cơ bản có trong lipid là glycerin và acid béo là do công của Chevreul, người Pháp vào năm 1828. Năm 1845, Boussingault đã chứng minh được rằng, trong cơ thể carbohydrate có thể chuyển thành lipid. Về giá trị dinh dưỡng trong cơ thể người:
Chất béo là nguồn giàu năng lượng nhất so với các hợp chất khác như protein, carbohydrate.
Chất béo tham gia vào thành phần nguyên sinh chất tế bào
Bảo vệ cho các cơ quan khỏi bị chấn động và bảo vệ cho cơ thể khỏi bị lạnh
Chất béo còn là dung môi hoà tan rất tốt các vitamin tan trong chất béo.
Ngày nay vai trò của chất béo trong dinh dưỡng người được đặc biệt quan tâm khi có những nghiên cứu chỉ ra mối quan liên quan giữa số lượng và chất lượng của chất béo trong khẩu phần với bệnh tim mạch.
Carbohydrate
Là chất dinh dưỡng chủ yếu trong khẩu phần ăn người Việt Nam. Trong cơ thể carbohydrate và các dẫn xuất của chúng hoàn thành các nhiệm vụ sau:
Carbohydrate là nguồn năng lượng cho mọi hoạt động sống
Carbohydrate cần thiết cho sự oxy hoá bình thường các chất béo và protein. Khi thiếu carbohydrate thì sự oxy hoá các chất trên không thể tiến hành đến cùng.
Carbohydrate là nguồn dinh dưỡng dự trữ, đồng thời tham gia vào cấu tạo các protein phức tạp, một số enzyme và hooc mon.
Carbohydrate còn đóng vai trò bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng, khỏi bị các độc tố thâm nhập, nó tham gia vào quá trình thụ thai và quá trình phục hồi và điều hoà phản ứng enzyme.
Chất khoáng
Năm 1713 người ta phát hiện Fe trong máu, năm 1812 phân lập được iode ở tyrosine của tuyến giáp trạng. Tuy nhiên vào sau nửa thế kỷ XIX, các nhà chăn nuôi mới chứng minh được sự cần thiết của chất khoáng trong khẩu phần, đặc biệt là khi cơ chế của toàn bộ quá trình trao đổi chất trong cơ thể người được làm sáng tỏ thì người ta cũng chứng minh các đặc thù của các ion calci, phosphor, magne, đồng, coban, kẽm.. trong mỗi khâu cũng như trong toàn bộ quá trình chuyển hoá của cơ thể. Các bệnh thiếu máu dinh dưỡng hoặc thiếu iode còn khá phổ biến ở các nước đang phát triển ngày nay cũng khẳng định vai trò thiết yếu của chất khoáng trong dinh dưỡng người.
Vitamin
Nếu như Lind (1753) là người đầu tiên phát hiện về vai trò của thức ăn đối với bệnh tật có liên quan với vitamin (tác dụng của nước chanh đối với bệnh hoại huyết) thì Nicolai Ivanovich Lunin là người sáng lập ra học thuyết vitamin. Tiếp đó các công trình của Hopkin, Eijkman đều đã chứng minh vai trò thiết yếu của vitamin trong việc chống lại một số bệnh tật, đặc biệt là việc tách vitamin B1 từ cám gạo của Funk.
Cho đến nay người ta đã phát hiện khoảng 30 chất thuộc vào nhóm vitamin nhưng trong số này chỉ có khoảng 20 chất có ý nghĩa trực tiếp đối với sức khoẻ và dinh dưỡng người.
Nước
Chiếm khoảng 55-75% trọng lượng cơ thể. Nước sử dụng như vật liệu xây dựng trong tất cả các tế bào của cơ thể. Mô mỡ chứa khoảng 20% nước, cơ chứa khoảng 75%, huyết tương máu chứa 90%. Nước trong cơ thể được sử dụng như:
Các dung môi
Một phần chất bôi trơn
Chất gây phản ứng hoá học
Chất gây điều hoà nhiệt độ cơ thể
Chất duy trì hình dạng và cấu trúc cơ thể
Nước phân bố trong và giữa tế bào, trong các cơ quan. Nước được đưa vào cơ thể nhờ thực phẩm, đồ uống và qua sự trao đổi chất. Nó được thải ra khỏi cơ thể bằng nước tiểu, phân, mồ hôi và hô hấp của phổi.
Chất xơ
Có nhiều trong thành tế bào thực vật, nó có tác dụng làm cho phân đào thải nhanh ra khỏi cơ thể, chống được các bệnh táo bón, viêm ruột thừa, trĩ.. Một số chất xơ hoà tan có tác dụng làm tăng chuyển hoá cholesterol, tránh được bệnh xơ vữa động mạch.
- Dinh dưỡng người
- Dinh dưỡng người - Mối quan hệ giữa lương thực - Thực phẩm, Nông nghiệp và sức khỏe
- Cấu trúc cơ thể và nhu cầu dinh dưỡng
- Protein
- Mở đầu
- Cấu trúc và tính chất lý hoá học cơ bản của protein
- Thành phần và hàm lượng protein trong các nông sản phẩm chính (nguồn cung cấp protein trong thực phẩm)
- Vai trò và chức năng của protein trong dinh dưỡng
- Những thay đổi xảy ra trong cơ thể thiếu protein
- Các acid amin và vai trò dinh dưỡng của chúng
- Những yếu tố ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của protein
- Các phương pháp xác định giá trị dinh dưỡng của protein
- Nhu cầu protein của cơ thể
- Lipid
- Carbohydrate
- Vitamin
- Các chất khoáng
- Khái luận về dinh dưỡng cân đối
- Thực phẩm và nhu cầu dinh dưỡng cho các đối tượng khác nhau
- Các bệnh liên quan đến dinh dưỡng