TÀI LIỆU

Hình thái học đại dương thế giới

1.1. Phân bố lục địa và nước trên Trái Đất

Hành tinh của chúng ta gồm một số lớp vỏ bao bọc. Lớp vỏ khí được gọi là khí quyển, lớp vỏ nước – thủy quyển, lớp vỏ rắn – thạch quyển. Toàn bộ sự sống tồn tại trong các lớp vỏ đó gọi là sinh quyển. Hệ thống vật chất phức tập gồm tất cả những quyển đó gọi là vỏ địa lý của Trái Đất.

Đại dương Thế giới là một hợp phần của thủy quyển, chiếm 94,20 % toàn bộ tổng thể tích thủy quyển.

Về mặt diện tích, trong số 510 triệu km2 diện tích bề mặt Trái Đất, thì Đại dương Thế giới chiếm 361 triệu km2 (71 %). Phần lục địa chỉ chiếm 149 triệu km2 (29 %).

Một nhân tố quan trọng hình thành nên những đặc điểm của tự nhiên trên hành tính chúng ta là sự phân bố không đồng đều của lục địa và đại dương trên mặt địa cầu. Ở nam bán cầu, trong khoảng 35 đến 70o vĩ nam (V.N) đại dương chiếm 95,5 % mặt Trái Đất, phần lục địa chỉ là 4,5 %. Ở bắc bán cầu, trong đới giữa 40 và 70o vĩ bắc (V.B) lục địa chiếm ưu thế hơn đại dương, ở đây lục địa chiếm tới 56 % diện tích. Nhưng nhìn chung, cả ở bắc bán cầu và nam bán cầu đại dương đều chiếm ưu thế. Ở bắc bán cầu tỷ lệ diện tích giữa đại dương và lục địa tuần tự là 60,7 % và 39,3 %, ở nam bán cầu là 80,9 % và 19,1 %.

Chính do sự phân bố rất không đều của mặt nước đại dương trên địa cầu mà người ta có thể chia nó thành bán cầu lục địa và bán cầu đại dương: bán cầu lục địa với 53 % diện tích là lục địa Á, Âu, Phi, Bắc Mỹ và phần lớn Nam Mỹ với cực ở khoảng nước Pháp, bán cầu đại dương với 90,5 % mặt phủ nước, cực ở Niudilơn và chỉ chứa châu lục Úc, một phần nhỏ Nam Mỹ và châu lục Nam Cực.

1.2. Đại dương Thế giới và các biển

Đại dương Thế giới là tập hợp những thủy vực đại dương và biển của Trái Đất với đặc điểm quan trọng nhất là trải rộng liên tục. Tuy nhiên sự tồn tại của các lục địa rải rác trên mặt Đại dương Thế giới không thể không làm cho những phần nào đó của Đại dương Thế giới khác với những phần khác về một số phương diện và cho phép người ta phân chia thành các đại dương, các biển và những bộ phận nhỏ hơn nữa. Khi phân chia những bộ phận của đại dương có tính đến những dấu hiệu như địa hình đáy, sự hiện diện của các quần đảo, các hệ thống hải lưu độc lập, hoàn lưu khí quyển, phân bố nhiệt muối, các điều kiện sinh học.

Hệ thống phân chia các bộ phận của Đại dương Thế giới do các nhà khoa học lớn đề xướng đã thay đổi nhiều lần trong lịch sử. Đến nay, trong sách báo các khoa học địa lý chấp nhận hệ thống phân chia thành Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương với một số đặc trưng hình thái như bảng 1. Ở bắc bán cầu, thường biên giới tự nhiên của các đại dương là bờ các lục địa. Chỉ ở nam bán cầu, tại vòng nước Nam Cực các đại dương tự do ăn thông sang nhau, không có biên giới tự nhiên. Các biên giới của các đại dương được vẽ theo các mũi đất phía nam của ba lục địa: kinh tuyến 20o Đ đi qua mũi Hảo Vọng được coi là biên giới giữa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Kinh tuyến 147o Đ đi qua đảo Taxman ở phía nam châu Úc là biên giới của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Biên giới của Thái Bình Dương và Đại Tây Dương là đường ngắn nhất nối mũi Hoocnơ với quần đảo Nam Setlen.

Những hiện tượng và quá trình diễn ra trong Đại dương Thế giới là thống nhất về chất tại tất cả các vùng của nó, điều này cũng lại là một nét nhấn mạnh tính thống nhất của Đại dương Thế giới. Nhưng về lượng, những quá trình và hiện tượng này biến đổi từ địa điểm này đến địa điểm kia tùy thuộc vị trí địa lý và khí hậu của những bộ phận của đại dương, ảnh hưởng của lục địa kế cận và mức độ xâm nhập của các dòng lục địa cũng như địa hình đáy và mức độ ngăn cách của các bộ phận đại dương với vùng khơi của nó. Vì vậy người ta tiếp tục phân chia các đại dương thành những bộ phận chi tiết hơn nữa.

Các biển và các vịnh biển là những khu vực ngoại vi của thủy vực đại dương, thường nằm ở vùng thềm lục địa, sườn lục địa hoặc ở các lòng chảo giữa lục địa và giữa các đảo.

Tùy thuộc các dấu hiệu hình thái và thủy văn, các biển được chia thành các biển ven, biển bên trong lục địa và giữa các lục địa, biển giữa các đảo v.v... Chúng là những khu vực tách biệt ít nhiều với thủy vực đại dương, có những nét khác với phần còn lại của đại dương. Những nét khác biệt đó có thể là cấu tạo của vỏ Trái Đất ở đáy, thành phần và các tính chất của nước. Độ muối của các biển thường khác với độ muối trung bình của Đại dương Thế giới. Chính là ở một số biển mà người ta quan trắc thấy những giá trị cực đại hoặc cực tiểu của độ muối. Biển cũng khác với đại dương về chế độ nhiệt, tính chất triều, các điều kiện sinh thái, hệ thống hải lưu, tất cả những nét đặc thù là do sự tương tác của biển với đất liền kế cận.

Các biển ven thường nằm ở phần kéo dài dưới nước của lục địa, một số ít trường hợp ở đới chuyển tiếp. Các biển ven phân cách khỏi đại dương bởi các chuỗi đảo, các bán đảo hay những ngưỡng ngầm. Thí dụ về các biển ven là các biển Baren, Karơ, Lapchevô, Đông Xibêri, Chucôt (nằm ở phần kéo dài của lục địa ở dưới nước Bắc Băng Dương), Bêrinh, Ôkhôt, Nhật Bản (nằm ở đới chuyển tiếp, phân cách với Thái Bình Dương bằng các chuỗi đảo), Hoàng Hải, Đông Trung Hoa (các biển thềm lục địa Thái Bình Dương).

Các biển giữa các lục địa thường tập trung vào những đới hoạt động kiến tạo với các hiện tượng địa chấn và các quá trình núi lửa. Thủy vực biển tiếp giáp với các lục địa ở mọi phía; các eo biển tương đối hẹp nối biển với đại dương; mức độ trao đổi nước tương đối thấp. Địa Trung Hải, Hồng Hải, vịnh Mếch Xích là những biển điển hình loại này. Nhóm biển nằm giữa các lục địa Á và Úc cũng thuộc loại những biển giữa các lục địa. Độ sâu của các biển này thường rất lớn (Địa Trung Hải tới 4500 m, biển Băngđa tới 7400 m, vịnh Mếch Xích tới 3600 m...).

Các biển bên trong lục địa có đường viền bờ thuộc cùng một lục địa: biển Ban Tích, Bạch Hải, Adốp, vịnh Hấtxơn v.v... Đây thường là những biển nông nằm gọn trong những vùng thềm lục địa, điều kiện tự nhiên gắn chặt với tự nhiên của đất liền bao quanh.

Các biển giữa các đảo được bao quanh bằng chuỗi đảo hay vòng cung đảo tương đối kín. Thuộc vào số các biển này gồm có các biển nằm giữa các lục địa Á và Úc như biển Sulavexi, Băngđa, Sulu và một số biển độc lập như biển Philippin, Phitgi, Xôlômôn v.v...

Ngoài ra, trong sách báo địa lý và hải dương học còn tồn tại những tên gọi biển nằm ở phần khơi đại dương không có biên rõ rệt. Biển Sagaxô độc đáo thuộc loại đó, nó “không có bờ”, nước rất trong với nhiệt độ cao và những loại động thực vật đặc biệt. Có những biển không liên quan với đại dương như Caxpi và Aran, là những biển kín, cũng còn gọi là những biển hồ. Nước của những biển này rất khác với nước đại dương.

Một số biển thực sự, nhưng theo tập quán lịch sử và hàng hải lại được gọi là vịnh như vịnh Hấtxơn, vịnh Mếch Xích, vịnh Pêch Xích..., trong khi đó một số vùng với những điều kiện địa lý của một vịnh biển thì lại được gọi là biển.

Vịnh là phần đại dương hoặc biển ăn sâu vào đất liền. Người ta thường vẽ biên giới vịnh một cách quy ước bằng đường thẳng nối các mũi cửa vào hay theo một đường đẳng sâu nào đó, vì các vịnh bao giờ cũng ăn thông với biển hay đại dương qua phần tỏa rộng của mình. Tùy thuộc nguồn gốc, cấu tạo bờ và hình dáng mà người ta gọi một số vịnh không lớn là những phiôt, vũng, lagun hay liman.

Nhiều biển và vịnh được nối với đại dương hoặc nối với nhau bằng các eo biển – thường đó là những phần hẹp của biển hay đại dương nằm giữa hai khu vực đất liền.

Cũng như biển, vịnh biển và eo biển có riêng chế độ thủy văn của mình, đặc biệt là hệ thống dòng chảy.

Khi gọi tên các biển và các bộ phận của chúng người ta thường dùng các tên địa lý. Chỉ ở các vùng cực tên gọi thường liên quan với tên của những người phát hiện ra chúng.

Các câu hỏi để tự kiểm tra

1) Sự phân chia Đại dương Thế giới thành những bộ phận. Biên giới của các đại dương.

2) Các loại biển và vịnh.