Sự kiện Tết Mậu Thân
Thời gian Đợt 1: 30-1 đến 28-3, Đợt 2: 5-5 đến 15-6, Đợt 3: 17-8 đến 30-9 năm 1968
Địa điểm Nam Việt Nam
Kết quả Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ chiến thắng về chiến thuật
Giải phóng quân Miền Nam thắng về chính trị
Tham chiến
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa,
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ,
Flag of South Korea (bordered).svg Hàn Quốc,
Flag of New Zealand.svg New Zealand,
Flag of Australia.svg Úc FNL Flag.svg Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam,
Flag of North Vietnam.svg Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chỉ huy
Flag of the United States.svg William Westmoreland Flag of North Vietnam.svg Võ Nguyên Giáp
Lực lượng
1.333.546 năm 1967 Theo công bố của quân Giải phóng miền Nam: 277.000
Việt Nam Cộng Hòa ước tính là 323.000 người, trong đó có 130.000 chủ lực và 160.000 du kích.
Bộ tư lệnh hành quân Mỹ (MACV) ước tính con số 330.000. CIA và Bộ ngoại giao Mỹ kết luận là lực lượng quân Giải phóng trong khoảng từ 435.000 đến 595.000.
Tổn thất
Theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam:
630.000 chết và bị thương
13.000 xe cơ giới
1000 tàu chiến
700 kho đạn
15.000 đồn bót
Theo Hoa Kỳ, VNCH và đồng minh (chỉ tính trong đợt 1):
VNCH:4.954 chết, 15.917 bị thương, 926 mất tích
Hoa Kỳ và đồng minh: 4.124 chết, 19.295 bị thương, 604 mất tích
Tổng:
9.078 chết, 35.212 bị thương, 1530 mất tích. 552 máy bay bị phá hủy hoặc hư hỏng.
Theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (chỉ tính trong đợt 1):
150.000 bị loại khỏi vòng chiến (có 43.000 lính Mỹ)
75.000+ tính đến tháng 8/1968
106.109 tính trong cả năm 1968 không tính mất tích, lạc, đào ngũ
.
Sự kiện Tết Mậu Thân là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 của Quân Giải phóng miền Nam trên hầu hết lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù cả hai bên đã có thỏa hiệp ngưng bắn [cần dẫn nguồn]. Đây là một sự kiện gây chấn động lớn trên thế giới và là chủ đề gây nhiều bàn cãi nhất; nó còn có một vai trò và hệ quả rất to lớn trong Chiến tranh Việt Nam.
Ba năm sau khi tham chiến trực tiếp quân đội Mỹ đã ngăn chặn miền Nam Việt Nam không rơi vào tay Cộng sản, nhưng quân Mỹ không thể bình định được miền Nam. Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh không cho phép quân đội tham chiến quá lâu tại nước ngoài mà không có được một tiến bộ rõ rệt khả dĩ cho phép rút quân về nước, phía quân Giải phóng hoạch định một trận đánh gây tiếng vang lớn "Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" (Lê Duẩn) để tạo đột phá cho chiến tranh, nhằm buộc Hoa Kỳ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán.
Diễn biến
Binh sĩ VNCH và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trong trận chiến Mậu Thân
Trong chiến dịch Đông Xuân 1967 – 1968, quân Giải phóng đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xã miền Nam Việt Nam. Thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa dù trong những năm trước hai phía đã thoả thuận ngưng chiến 36 giờ đồng hồ để người dân được yên hưởng một Tết truyền thống trong hoà bình.[cần dẫn nguồn]
Quân Giải phóng đã tấn công đúng vào giao thừa để giành phần bất ngờ. Chiến trường Huế, một địa điểm chính yếu trong toàn cuộc chiến, đã diễn ra ác liệt và kéo dài đến 25 ngày đêm. Sau khi quân Giải phóng bị đánh bật ra khỏi thành phố, người dân Huế đã tìm thấy nhiều hố chôn tập thể với hàng ngàn xác thường dân được Mĩ và Việt Nam Cộng hòa cho là đã bị bộ đội thảm sát trong khoảng thời gian chiếm đóng kéo dài bốn tuần tại đây. Từ đó về sau, Tết Nguyên Đán trở thành ngày giỗ người thân của hàng ngàn gia đình ở cố đô Huế.[cần dẫn nguồn]
Do trong tháng 1 năm 1968 ngày dương lịch sát ngày âm lịch: ngày 29 (tháng 1) dương lịch là ngày 30 (tháng chạp) âm lịch và có sự lệch nhau một ngày của Tết hai miền nên có sự hiểu không nhất quán trong các cấp chỉ huy chiến trường của quân Giải phóng về thời điểm tiến công (ngày N): là ngày theo âm lịch hay theo dương lịch, là theo lịch miền Bắc hay lịch miền Nam. Sự thiếu nhất quán này đã làm cuộc tiến công ở các địa bàn Quân khu 5 Quân Giải phóng đã nổ ra sớm hơn một ngày so với các địa phương khác trên toàn miền Nam. Tuy vậy tính bất ngờ của Mậu Thân vẫn được bảo đảm.
Quân giải phóng bị bắt trong chiến dịch Mậu Thân-1968
Mặc dù phía Mỹ cũng đã đưa ra một số dự đoán về cuộc tấn công này có thể diễn ra trước tết hoặc sau tết nhưng trên thực tế nó nổ ra ngay đúng trong dịp tết, vì vậy phía Mỹ lẫn phía Việt Nam Cộng hòa đều bị bất ngờ cả về thời gian lẫn quy mô của cuộc tiến công này. Cuộc tiến công đã nổ ra vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân theo lịch miền Bắc, tức đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968, trên khắp các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam đến Khánh Hoà và Tây Nguyên (thuộc Quân khu 5 của quân Giải phóng). Và đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1, tức đêm giao thừa của lịch miền Nam (đêm mồng 1 rạng ngày mồng 2 Mậu Thân của lịch miền Bắc), quân Giải phóng tiến công tại tất cả các tỉnh thành còn lại của miền Nam Việt Nam.
Ngay đêm tiến công đầu tiên tại Sài Gòn các đội biệt động cảm tử của Giải phóng quân đã nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, đài phát thanh, bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đã gây bất ngờ lớn cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Cuộc tiến công cho thấy sự bất lực của hệ thống tình báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã không tiên liệu được khả năng, tính chất cũng như thời điểm, quy mô của sự kiện mặc dù có sự khập khiễng về ngày giờ tiến công của quân Giải phóng ở các địa phương.
- Bất ngờ về mục tiêu và thời điểm tiến công: 10 ngày trước, hai sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có hành động nghi binh bằng cách tấn công căn cứ của lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Khe Sanh làm bộ chỉ huy Mỹ tập trung tâm trí và binh lực lên miền núi Quảng Trị để tránh một trận Điện Biên Phủ mới[11]. Việc lực lượng quân Giải phóng tiến công vào các đô thị không hề được lường trước làm cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Mỹ hoàn toàn bất ngờ khi một bộ phận sĩ quan và binh lính (kể cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu) đang về quê nghỉ Tết Nguyên đán.
- Bất ngờ về quy mô tiến công: cuộc tiến công làm sửng sốt mọi người khi mà đồng loạt tại tất cả các đô thị cùng diễn ra các trận đánh quyết liệt trong gần một tháng (chỉ riêng đợt 1) và điều bất ngờ này cho thấy 3 năm tìm-diệt của quân đội Hoa Kỳ chỉ đạt được hiệu quả thấp.
- Bất ngờ về độ sát thương bạo liệt không khoan nhượng: từng dãy phố bị ném bom napal, quân hai bên có lúc, có nơi đánh nhau như điên dại, tràn lan mức độ giết chóc và trả thù, hành quyết ngay trên phố (Xem Sự kiện Nguyễn Ngọc Loan)... Những điều này được truyền thông nhanh chóng, gây ấn tượng rất lớn lên tâm lý dư luận thế giới[12].
- Về mặt tác chiến trong số các đô thị, quân Giải phóng thành công nhất tại cố đô Huế (Xem Trận Mậu Thân tại Huế). Họ chiếm giữ thành phố lâu tới 25 ngày sau khi đánh nhau ác liệt giành giật từng khu nhà đoạn phố với thủy quân lục chiến Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lãnh đạo của phía quân Giải phóng đã lựa chọn phương án mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của địch. Trong việc lập kế hoạch cho cuộc tổng tiến công, quân Giải phóng đã có những đánh giá không đúng với thực tế tình hình và duy ý chí: họ hy vọng cùng với tiến công quân sự đánh vào các lực lượng Việt Nam Cộng hòa ở trong các đô thị họ có thể phát động dân chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa đánh sụp chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đặt Mỹ trước tình thế phải đi đến quyết định ra đi khỏi chiến tranh. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà và đánh giá quá cao khả năng của họ, nên trong thực tế quân Giải phóng đã bị thương vong to lớn mà không phát động được tổng khởi nghĩa của người dân (trừ ở một số nơi như Huế); chính quyền Việt Nam Cộng hoà vẫn đứng vững.
Xác quân Giải phóng trong Trận Mậu Thân
Một đặc điểm nữa của việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968 là các cấp chỉ huy chiến đấu của quân Giải phóng đã không tách bạch được đâu là mục tiêu chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến rộng rãi trong quân sĩ để cổ vũ khí thế chiến đấu.[cần dẫn nguồn] Mục tiêu thực chất là đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán. Còn mục tiêu chính trị được phổ biến tuyên truyền trong cán bộ binh sĩ để nâng cao sĩ khí là đó là trận cuối cùng "đánh dứt điểm" đối phương. Các cán bộ chiến trường khi lập kế hoạch tác chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của cấp trên nên họ lập kế hoạch và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng. Điều này làm cho các thiệt hại của Giải phóng quân càng thêm nặng nề.
Điều tệ hại hơn nữa cho quân Giải phóng là họ đã không linh hoạt thay đổi tuỳ theo tình hình. Khi thấy chưa đạt được mục tiêu trong đợt tấn công đầu tiên họ đã phát động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đã bại lộ và đối phương đã đề phòng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của Giải phóng quân càng lớn.
Loạt bài
Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959
Miền Bắc – Miền Nam
Thuyết Domino
Giai đoạn 1960–1965
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Sự kiện Phật Đản, 1963
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc
Chiến dịch:
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền
Miền Nam
Chiến dịch:
Các chiến dịch Tìm-Diệt
Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968
Diễn biến Quốc tế
Giai đoạn 1968–1972
Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hóa chiến tranh
Hội nghị Paris
Hiệp định Paris
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –
Hè 1972 –Linebacker –Linebacker II
Giai đoạn 1973–1975
Chiến dịch:
Xuân 1975
Phước Long
Tây Nguyên -Huế - Đà Nẵng
Phan Rang - Xuân Lộc
Hồ Chí Minh
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông
Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Chất độc da cam
Thuyền nhân
sửatiêu bản
Đánh giá các sai lầm của quân Giải phóng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân, báo Quân đội Nhân dân đã liệt kê các điểm như: đánh giá sai về tương quan lực lượng giữa hai bên dẫn đến việc đề ra mục tiêu tổng tấn công giành chính quyền một cách chủ quan, không kịp thời chuyển hướng hoạt động quân sự khi tình hình đã thay đổi.[13]
Kết quả
Cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đã dẫn đến các kết quả chính trị và quân sự cho cả thời kỳ 1969-1971.
Quân sự
Tướng cảnh sát miền Nam Nguyễn Ngọc Loan (1930 - 1998) bắn chết tù binh trên đường phố
Theo các thông cáo chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì họ đã loại ra khỏi vòng chiến 630.000 quân đối phương cả Mỹ lẫn VNCH, 13.000 xe cơ giới, 1.000 tàu chiến, 700 kho đạn, 15.000 đồn bót[14]
Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước, phải 3-4 năm sau lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Mất đất mất dân, quân đội của họ mất thế đứng chân tại nhiều nơi trên chiến trường miền Nam, phải rút về miền nông thôn, rừng núi hoặc phải sang ẩn tránh tại các vùng bên kia biên giới Lào và Campuchia. Thậm chí đã có ý kiến trong giới lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và ở Hà Nội đề nghị giải tán các sư đoàn, trung đoàn chính quy và quay trở về lối đánh du kích.[cần dẫn nguồn]. Tuy vậy, về phía mình các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng quân đội của họ đã giành thắng lợi to lớn và gây thiệt hại nặng cho lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa.[15][cần dẫn nguồn]
Chiến trường miền Nam trở nên yên tĩnh. Trong các năm sau Mậu Thân, từ 1969 đến 1971, là thời gian Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ động tiến công tìm diệt quân Giải phóng, thực hiện kế hoạch Phượng Hoàng, bình định và triệt phá phong trào chính trị của phe Cộng sản ở nông thôn và thành thị. Vai trò của đấu tranh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam từ nay suy giảm đi nhiều vì các hệ thống cơ sở chính trị của họ bị phá và với sự ác liệt không khoan nhượng của chiến tranh ở giai đoạn này không cho phép dân chúng tụ tập trên chiến trường để yêu sách chính trị.[cần dẫn nguồn] Từ đó trở đi sức mạnh vũ trang mang tính chất quyết định.