Tỉ giá ngang giá vàng trong chế độ bản vị vàng
Từ năm 1880 cho đến đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914, chế độ tỉ giá được áp dụng là chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này, vàng được sử dụng làm nền tảng cơ sở của tiền tệ và một quốc gia sẽ xác định đơn vị tiền tệ của mình bằng hàm lượng vàng chứa bên trong một đơn vị ấy.
Ví dụ:
. Hàm lượng vàng chứa trong 1 USD = 1.504g vàng (trước năm 1914).
. Hàm lượng vàng chứa trong 1 GBP = 7.320g vàng (trước năm 1914).
Còn tỉ giá được xác định trên cơ sở ngang giá hàm lượng vàng tức đông giá vàng. Ví dụ như tỉ giá giữa GBP và USD: 1 GBP/ 1 USD = 7.320/1.504 = 4.867, vậy 1GBP tương đương với 4.867 USD.
Tỉ giá giữa các đồng tiền được xác định một cách chính xác như vậy nhưng trên thực tế tỉ giá không cố đinh và luôn biến động xung quanh đồng giá vàng tuỳ theo quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì tỉ giá có xu hướng tăng và ngược lại. Biến động của tỉ giáluôn năm trong giới hạn nhất định đó là chi phí vận chuyển vàng. Điểm thấp nhất và điểm cao nhất của tỉ giá so với đồng giá vàng được gọi là điểm vàng.Vì trong điều kiện tièn giấy được tự do chuyển đổi ra vàng, vàng được tự do luân chuyển giữa các nước đã giữ cho tỉ giá biến động không vượt quá điểm vàng. Như vậy một nhà nhập khẩu hay người mắc nợ có thể thanh toán nợ theo một trong hai cách sau:
- Thứ nhất, lấy tiền nội tệ mua ngoại tệ để trả nợ.
- Thứ hai, lấy nội tệ mua vàng và chuyển ra nước ngoài trả nợ vì vậy phải hao tổn một số chi phí như chi phí vận tải, đóng gói, bảo hiểm...
Phạm vi biến động của tỉ giá phụ thuộc vào chi phí vận chuyển vàng. Khi tỉ giá tăng đến điểm vàng cao nhất, tại thời điểm này vàng ở trong nước chạy ra nước ngoài nên được gọi là điểm xuất vàng. Ngược lại tỉ giá giảm đến điểm vàng thấp nhất, tại thời điểm này vàng chạy từ nước nước ngoài vào trong nước nên gọi là điểm nhập vàng. Điểm xuất vàng của nước này sẽ là điểm nhập vàng của nước kia.
Lợi thế của tỷ giá hối đoái trong chế độ bản vị vàng là biên độ biến thiên của tỷ giá nhỏ nên quan hệ mua bán quốc tế cũng như hoạch định đầu tư thuận lợi dễ dàng giữa các nước.
Tỷ giá hối đoái trong chế độ tiền tệ Bretton Woods
Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), chế độ bản vị vàng hoàn toàn sụp đổ, các nước tư bản chủ nghĩa chủ trương khôi phục lại chế độ bản vị vàng không trọn vẹn, đó là chế độ bản vị hối đoái vàng thông qua đồng Bảng Anh (1924), sau đó là đồng USD của Mỹ (1944).
Cụ thể vào tháng 7-1944, để tránh tình trạng kinh tế yếu kém như trước chiến tranh, chính phủ các nước đồng minh vào cuối thế chiến thứ hai đã gặp nhau tại một cuộc hội nghị của Liên Hợp Quốc về tiền tệ và tài chính. Hội nghị được tổ chức tại Bretton Woods, New Hamphshire, Hoa Kì. Tại hội nghị hai tổ chức đã được thiết lập, đó là:
- Quỹ tiền tệ quốc tế ( The International Monetary - IMF ).
- Ngân hàng quốc tế nhằm mục đích tái thiết và phát triển ( thường gọi là ngân hàng thế giới - World Bank ).
Và cũng từ đó, đồng tiền USD của Mỹ được các nước chấp nhận sử dụng trong quan hệ thanh toán quốc tế và được IMF xác định tiêu chuẩn giá cả với 1 USD = 0,888671 gam vàng. Chính vì vậy mà đã hình thành tỷ giá cố định giữa USD với đồng tiền các nước trong IMF. Để giữ vững tỷ giá cố định với USD, các nước trong IMF chỉ được mua bán ngoại tệ theo tỷ giá trong phạm vi biên độ ± 1% so với tỷ giá chính thức. Để giữ vững tỷ giá vàng IMF còn quy định giá vàng là 35 USD/ounce vàng. Như vậy trong trường hợp nếu giá vàng trên thị trường vượt qua 35 ounce vàng thì Mỹ tung vàng ra bán với giá 35 USD/ounce vàng và ngược lại, khi giá vàng dưới 35 USD/ounce vàng thì Mỹ tung USD ra và mua vàng về.
Với chế độ tiền tệ này, các nước đã duy trì được tỷ giá cố định trong thời gian tương đối dài cho đến năm 1960. Bắt đầu từ sau năm 1960, nền kinh tế Tây Âu và Nhật được phục hồi và có khả năng cạnh tranh với Mỹ, hơn nữa đồng USD của Mỹ đã bị khủng hoảng và suy yếu, các nước dự trữ USD ngày càng nhiều, đã lần lượt tấn công vào kho vàng của Mỹ, buộc Mỹ chuyển đổi USD ra vàng. Sau hai lần phá giá USD hàm lượng vàng của 1 USD là 0.736662 g vàng. Tình hình này làm cho kho dự trữ vàng của Mỹ tụt xuống thấp nhất và chính thức ngày 13. 2.1973 Mỹ đơn phương tuyên bố chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ và hầu hết các nước tư bản đều thi hành chính sách thả nổi của đồng tiền nước mình.
Tỉ giá hối đoái sau chế độ tiền tệ Bretton Woods
Sau khi chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ đến nay, các nước trên thế giới chủ yếu lưu thông tiền giấy không chuyển đổi ra vàng trong lưu thông, hàm lượng vàng chỉ mang tính chất tượng trưng, giá trị tiền tệ luôn thay đổi, tỷ giá biến động không ngừng nên việc xác định tỷ giá không dựa trên đồng giá vàng mà trên cơ sở so sánh sức mua của hai đồng tiền, bao gồm sức mua trong nước và sức mua quốc tế gọi là ngang giá sức mua.
Trên thực tế tỉ giá được hoàn toàn xác định do quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường, tại mỗi thời điểm nhất định ở mỗi thị trường khác nhau trên thế giới, tỉ giá biến động liên lục trong ngày, còn gọi là cơ chế tỉ giá thả nổi.
Tuy nhiên để tránh sự biến động thăng trầm quá mức của tỉ giá gây ảnh hưởng không tốt đến mọi hoạt động trong nền kinh tế như gây ra lạm phát hay suy thoái kinh tế, cần thiết phải có sự can thiệp quản lý của nhà nước. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, nhà nước chủ động điều chỉnh tỉ giá hối đoái theo hướng có lợi cho nền kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển, còn gọi là cơ chế tỉ giá thả nổi có quản lý.