Sự ra đời của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hoá, sự ra đời và vận động của tín dụng được bắt nguồn từ đặc điểm của sự chu chuyển vốn tiền tệ và sự cần thiết sinh lợi của vốn tạm thời nhàn rỗi cũng như nhu cầu về vốn nhưng chưa tích luỹ được, trong cùng một thời điểm đã hình thành một quan hệ cung cầu về tiền tệ giữa một bên là người thiêú vốn (đi vay) và một bên là người thừa vốn (cho vay)
Tín dụng có nghĩa là sự vay mượn, sự chuyển ngượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại với người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu (số giá trị dôi ra đó chính là lãi trong cho vay) với những điều kiện mà hại bên đã thoả thuận với nhau.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hoạt động tín dụng không ngừng phát triển và hoàn thiện trở thành hình thức tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng là trung gian tín dụng giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa người đi vay và người cho vay. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là ngân hàng-tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là người đi vay, vừa là người cho vay.
Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng có tác động quyết định đến sự phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất góp phần quan trọng trọng việc phục hồi và phát triển kinh tế của các nước trên thế giới.
Vai trò tín dụng của Ngân hàng
Sản xuất phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mỗi quốc gia trên thế giới. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng hoàn thiện phải nói đến vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là người trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy hàng hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế xã hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá ra đời và được mở rộng xã kéo theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức kinh doanh tiền tệ đầu tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng.
Vì vậy, chúng ta thấy rằng còn tồn tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt động tín dụng không thể mất đi mà trái lại ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi trong nền kinh tế, tại một thời điểm tất yếu sẽ phát sinh hai loại nhu cầu là người thừa vốn cho vay để hưởng lãi và người thiếu vốn đi vay để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau nhưng cũng chung một đối tượng đó là tiền, chung nhau về tính tạm thời và cả hai bên đều thoả mãn nhu cầu và đều có lợi. Ngân hàng ra đời với vai trò là nơi hiểu biết rõ nhất về tình hình cân đối giữa cung và cầu vốn trên thị trường như thế nào.Và với hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giải quyết được hiện tượng thừa vốn, thiếu vốn này bằng cách huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại vốn trên nguyên tắc có hoàn trả phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh...
Tín dụng ngân hàng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất được thực hiện bình thường liên tục và phát triển nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình tái ẩn xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng phạm vi quy mô sản xuất
Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, động viên nhanh chóng nguồn vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn có khác đưa vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách kịp thời của tín dụng ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh tình trạng ứ tắc, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triênr nhanh chóng.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng cố chế độ hoạch toán kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức Ngân hàng huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần vốn để bổ xung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng, trả nợ vay đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... để tạo điều kiện nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khá quan trọng là hạch toán kinh tế.
Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lí đồng vốn sao cho có hiệu quả. Để quản lí đồng vốn có hiệu quả thì hạch toán tinh tế phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn để nó được sử dụng đúng mục đích, tạo ra doanh lợi cho doanh nghiệp. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn quá trình hạch toán của đơn vị mình.
Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại.
Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ kinh tế với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay đã nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh tế chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong đó vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng. Tín dụng ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức cá nhân với chính phủ, giữa các cá nhân với cá nhân...Sự phát triển ngày càng tăng trong hoạt động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động ngaỳ càng lớn làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết. Vì vậy việc tạo điều kiện thuận lợi về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thương mại... đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước ra phạm vi của thế giới có tác dụng thúc đẩy nền sản xuất mang tính quốc tế hoá, hình thành thị trường khu vực và thị trường thế giới, tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với nhau. Như vậy các hình thực thanh toán cũng sẽ đa dạng hơn như thanh toán qua mạng SWIFT, thanh toán LC... mỗi hình thực thanh toán đòi hỏi hình thức tín dụng phù hợp và đảm bảo cho nó an toàn và hiệu quả. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng trong thương mại, tạo điều kiện cho quá trình lưu thông hàng hoá, thắng trong cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn tới thắng lợi của mọi cạnh tranh khác trọng hoạt động ngoại thương.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH.
Đặc điểm của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc thù riêng cụ thể:
Thứ nhất: Ở nước ta hiện nay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hầu hết là các đơn vị trẻ, ngành nghề kinh doanh phong phú dễ tiếp nhận và nhạy bén với kỹ thuật mới. Do vậy nó cần phải được phát triển và giữ một vị trí quan trọng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta.
Thứ hai: Với thị trường lao động lớn, giá nhân công rẻ mạt, do vậy các thành phần kinh tế này rất có lợi thế về kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản xuất của người lao động, nó thừa hưởng thành quả và sự phù hợp với xu thế phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới và chủ trương đổi mới có cấu kinh tế ơ nước ta.
Thứ ba: Việc sắp xếp lại các dịch vụ nhà nước đã chuyển dịch một tỷ lệ đáng kể “chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. hơn thế nữa, nội lực năng động trong phương thức phân phối thu nhập sẽ tạo kênh dòng chảy các cán bộ quản lí giỏi, lao động kỹ thuật cao từ các doanh nghiệp nhà nước về các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Nó tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này phát triển.
Thứ tư: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Nhưng thành phần này mang tính chất “tự thân vận động”. Do vậy mục đích của nó là cạnh tranh có hiệu quả để đạt được lợi nhuận cao bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có tính sở hữu, tư hữu hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với người sản xuất, bộ máy gọn nhẹ, năng động.
Qua các đặc điểm của nền kinh tế ngoài quốc doanh ta thấy nó rất phù hợp với sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Nếu nhà nước có một chính sách và một môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển thì họ đóng góp một tỷ trọng đáng kể cho tăng trưởng GDP trong cả nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động góp phần giảm tệ nạn xã hội trong nền kinh tế.
Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh:
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng với các đường lối đổi mới đúng đắn kịp thời các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã có chỗ đứng bình đẳng so với kinh tế quốc doanh. Do vậy nó đã và đang phát huy thế mạnh sẵn có để góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Vị trí quan trọng của nó đã được khẳng định trong cơ cấu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nưóc ta hiện nay. Vai trò của nó được thể hiện ở các mặt cụ thể sau:
Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, đa dạng phong phú, chất lượng cao, tạo quỹ tiêu dùng và xuất khẩu. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang có nhiều đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá cho các địa phương trong cả nước mà đồng thời còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Kinh tế ngoài quốc doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất và đối thủ cạnh tranh với thành phần kinh tế quốc doanh, giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động.
Kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc điểm về tính sở hữu cao, bộ máy sản xuất kinh doanh rất năng động, nhạy bén, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với người sản xuất, hộ đều có mục đích vì quyền lợi của chính cá nhân mình, của gia đình, của người thân, đó là điều kiện giúp cho kinh tế ngoài quốc doanh phát huy được mọi tiềm năng. Mặt khác nền kinh tế thị trường sẽ hoạt động có hiệu quả mang lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng và cho xã hội khi và chỉ khi có cạnh tranh. Có cạnh tranh thì người sản xuất mới chú trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn để làm thế nào sản phẩm mình sản xuất ra được thị trường chấp nhận và tiêu thụ được. Với đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện để kinh tế ngoài quốc doanh tiết kiệm chi phí sản xuất, tìm kiếm mặt hàng mới, khai thác thị trường mới, nhanh nhay xoau chuyển tình thế kịp thời phù hợp với nhu cầu thị trường, đưa ra những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lí.
Kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước.Hiện ngay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu xã hội ngày càng tăng lên. Để đáp ứng được nhu cầu xã hội về phía các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh họ luôn phải tăng cường mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng là để tăng nguồn thu cho chính các đơn vị và nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang giải quyết một số vấn đề nan giải , đó là vấn đề về công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Từ đó ta thấy rằng: Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh là một giải pháp hữu hiệu cho việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh cho thấy khu vực kinh tế này có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên để phát huy tính năng động trong kinh doanh, khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế này Nhà nước cần hỗ trợ cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh. Một giải pháp hữu hiệu nhất đó là đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này thông qua kênh tín dụng ngân hàng. Từ đó đã khẳng định vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo mục tiêu phát triển của đất nước.
Bất kì một đơn vị nào để tiến hành sản xuất kinh doanh được thì cũng cần phải có vốn, và cũng vậy đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển thực hiện quá tình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng cũng cần có một nguồn vốn đủ để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và các chi phí khác. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức để cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường và để phân tán những rủi ro trong kinh doanh. Các thành phần kinh tế này phải huy động thêm từ bên ngoài, nguồn vốn quan trọng nhất để bổ xung vốn cố định và vốn lưu động cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đó là nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật .. thông qua các khoản tín dụng ngân hàng thương mại.
Như vậy tín dụng trở thành người trợ thủ đắc lực cho các đơn vị này trong việc thoả mãn cơ hội kinh doanh. Khi có có hội kinh doanh, các đơn vị này cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn thì ngân hàng sẽ cho vay. Nguồn này ngân hàng huy động từ nhiều nơi khác nhau như huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế trong nước, nước ngoài...
c. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu của chính phủ là phát triển kinh tế đa thành phần phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt được mục tiêu đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần đưa nền kinh tế nước ta lên một vị trí mới. Đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để giúp đỡ các đơn vị có điều kiện thuận lợi mở rộng sản xuất kinh doanh để theo kịp hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN CHO VAY.
Vai trò nhiệm vụ của kế toán ngân hàng.
Vai trò của kế toán ngân hàng.
Kế toán ngân hàng là hệ thống thông tin phản ánh hoạt động của ngân hàng. Kế toán ngân hàng cung cấp những số liệu về huy động vốn, sử dụng vốn, thu nhập, chi phí, lợi nhuận của từng loại nghiệp vụ và của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Qua đó ta có thể thấy được ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không, đồng thời cũng thấy được triển vọng của ngân hàng để từ đó ra những quyết định kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lí tài sản.
Hầu hết các nghiệp vụ của kế toán ngân hàng đều liên quan đến các ngành kinh tế khác vì thế kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp hoạt động của bản thân ngân hàng mà còn phản ánh tổng hợp hoạt động của nền kinh tế thông qua quan hệ tiền tệ, tín dụng... giữa ngân hàng với các đơn vị tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thông qua các hoạt động của mình, kế toán ngân hàng giúp cho các giao dịch trong nền kinh tế được tiến hành một cách kịp thời, nhanh chóng và chính xác hơn. Những số liệu do kế toán ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu thông tin kinh tế quan trọng giúp cho việc chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng và làm căn cứ cho việc hoạt động, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và chỉ đạo hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Nhiệm vụ của kế toán ngân hàng
Ghi nhận, phản ánh một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của ngân hàng theo đúng pháp lệnh kế toán, thống kê của Nhà nước và các thể lệ, chế độ kế toán ngân hàng. Trên cơ sở đó giám sát, theo dõi để bảo vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng cũng như tài sản của xã hội bảo quản tại ngân hàng.
Kế toán ngân hàng phân loại nghiệp vụ tập hợp số liệu theo đúng phương pháp kế toán và theo những chỉ tiêu nhất định nhằm cung cấp những thông tin một cách đầy đủ, chính xác kịp thời phục vụ quá trình lãnh đạo thực thi chính sách quản lí và chỉ đạo hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Kế toán ngân hàng giám sát việc sử dụng tài sản (vốn) nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các loại tài sản thông qua kiểm soát trước (tiền kiểm) các nghiệp vụ bên nợ và bên có ở từng đơn vị ngân hàng cũng như toàn hệ thống góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, củng cố chế độ hạcn toán kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kế toán ngân hàng còn tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng một cách khoa học, văn minh, giúp đỡ khách hàng nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ kế toán nói riêng nhằm góp phần thực hiện chiến lược khách hàng của ngân hàng, Vì khách hàng trong ngân hàng vừa là người cung cấp vốn, vừa là người mua vốn mà chức năng trung gian quan trọng nhất của ngân hàng là biến nguồn vốn lẻ tẻ thành một nguồn vốn lớn, biến kỳ gửi không kỳ hạn thành có kỳ hạn, họ tìm mọi cách tranh thủ nguồn vốn để kéo thêm khách hàng và đồng thời giữ được khách hàng.
Vai trò nhiệm vụ của kế toán cho vay.
Vai trò của kế toán cho vay.
Kế toán cho vay giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của ngân hàng, nó được xác định là nghiệp vụ kế toán phức tạp bởi lẽ trong bảng cân đối cho thấy hoạt động cho vay chiếm phần lớn trong tổng tài sản có của ngân hàng nghĩa là kế toán cho vay tham gia vào quá trình sử dụng vốn- hoạt động cơ bản của ngân hàng.
Có thể nói rằng nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng và là nghiệp vụ hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Để cho nghiệp vụ này có hiệu quả, năng suất và chất lượng thì công tác kế toán cho vay góp phần không nhỏ qua việc phản ánh một cách rõ ràng, chính xác các nghiệp vụ cho vay, đối tượng khách hàng vay, thời hạn cho vay và phản ánh rõ ràng chất lượng tín dụng để bảo vệ tốt hơn nguồn vốn của ngân hàng.
Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong công việc chỉ đạo chấp hành chính sách tín dụng tiền tệ của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, với cơ chế tín dụng như hiện nay Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất đối với các thành phần kinh tế tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần này có hoạt động, phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh kịp thời. Thực hiện tốt công tác kế toán cho vay, làm tham mưu đắc lực cho công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy cũng như giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.
Đối với nền kinh tế nói chung, kế toán cho vay tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức kinh tế nhận và hoàn trả vốn nhanh chóng, kịp thời chính xác trên cơ sở đó để phát triển sản xuất kinh doanh và mở rộng lưu thông hàng hoá.
Kế toán cho vay phản ánh tình hình đầu tư vốn vào các ngành kinh tế quốc doanh, các thành phần kinh tế. Thông qua kế toán cho vay có thể biết được phạm vi, phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư của ngân hàng vào các thành phần kinh tế đó.
Kế toán cho vay theo dõi hiệu quả sử dụng vốn vay của từng đơn vị, khách hàng, qua đó tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế cho vay.
Nhiệm vụ của kế toán cho vay:
Kế toán cho vay là công việc tính toán, ghi chép một cách đầy đủ, chính xác các khoản cho vay, thu nợ, thu lãi, theo dõi thu nợ tín dụng ngân hàng trên cơ sở đó bảo đảm an toàn vốn cho vay của ngân hàng và cung cấp các thông tin cần thiết cho việc quản lý và điều hành nghiệp vụ tín dụng ngân hàng.
Nhiệm vụ bảo vệ tài sản đối với kế toán cho vay rất nặng nề bởi tài sản có cho vay ra chủ yếu dưới dạng vốn tiền tệ mà lại giao cho tổ chức kinh tế sử dụng. Nếu cho vay không có hiệu quả sẽ gây ra rủi ro rất lớn. Vì vậy kế toán cho vay thực hiện tốt nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng.
Kế toán cho vay phải kiểm tra và xác định tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ kế toán cho vay để đảm bảo khoản vay có khả năng thu hồi ngay từ khâu phát tiền vay.
Tổ chức ghi chép một cách kịp thời, chính xác các khoản cho vay, thu nợ, thu lãi, chuyển nợ quá hạn kịp thời để bảo đảm an toàn tài sản và nâng cao hiệu quả tín dụng.
Tham mưu cho cán bộ tín dụng và kết hợp với cán bộ tín dụng trong việc giám sát sử dụng vốn vay, trong việc thẩm định khoản cho vay và đôn đốc thu nợ hoặc chuyển nợ quá hạn theo đúng chế độ.
Cung cấp thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng cũng như cho lãnh đạo ngân hàng để quản lý và điều hành nghiệp vụ tín dụng.