Nguồn gốc và các loại tế bào của tuyến yên
Tuyến yên (pituitary gland) còn được gọi là tuyến hạ não hay tuyến dưới não (hypophysis) có đường kính khoảng 1cm và khối lượng khoảng 0.5-1 gram, nằm trong hố yên của xương bướm ở mặt dưới của não và được nối với vùng dưới đồi thị bởi cuống tuyến yên (pituitary stalk) hay cuống hạ não (hypophysical stalk).
Tuyến yên gồm hai phần (hay hai thùy): Thùy trước (anterior pituitary hay adenohypophysis) và thùy sau (posterior pituitary) hay còn gọi là thùy thần kinh (neurohypophysis). Ở động vât bậc thấp, giữa hai thùy có phần giữa (par intermedia).
Hai thùy của tuyến yên có nguồn gốc khác nhau. Thùy trước phát triển từ Rathke’s pouch (phần túi của lá phôi ngoài hình thành trong giai đoạn phôi thai do sự lõm vào của biểu mô yết hầu. Phần sau là phần phát triển ngoài của vùng dưới đồi thị. Nguồn gốc phát sinh giải thích tại sao các tế bào thùy trước có đặc điểm của các tế bào biểu mô trong các tế bào thùy sau có đặc điểm của các tế bào thần kinh.
Thùy trước tiết ra sáu hormon quan trọng cùng một số hormon khác.
Thùy sau tiết hai hormon.
Hormon thùy trước đóng vai trò chủ yếu trong điều khiển trao đổi chất của cơ thể bao gồm:
(1) hormon sinh trưởng (growth hormone) ảnh hưởng đến mức độ sinh trưởng của cơ thể thông qua hàng loat quá trình trao đổi chất, đặc biệt là ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp protein.
(2) adrenocortocotropin điều khiển sự tiết của vỏ tuyến thượng thận từ đó ảnh hưởng đến qúa trình trao đổi đường, protein va chất béo.
(3) hormon kích thích tuyến giáp (thyroid- stimulating hormone) điều khiển quá trình tiết thyroxine của tuyến giáp . Thyroxine có ảnh hưởng điêu khiển tốc độ các phản ứng hóa học diễn ra trong toàn bộ cơ thể. (4) prolactin kích thich tuyến sữa và kích thích quá trình sinh sữa
(5) follicle-stimulating hormone và luteinizing hormone ảnh hưởng đến sự phát triển của các tuyến sinh dục (buồng trứng hay dịch hoàn và chức năng của các tuyến này.)
Hormon thùy sau tuyến yên bao gồm
(1) antidiuretic hormone còn được gọi là vasopressin có tác dụng điều khiển qúa trình bài tiết nước của thận qua đó ảnh hưởng đến lượng nước trong cơ thể.
(2) oxytocin kích thích quá trình thải sữa và có tác dụng kích thích co bóp tử cung đẩy bào thai ra ngoài trong quá trình đẻ.
Các loại tế bào của thùy trước tuyến yên
Có ít nhất 5 loại tế bào trong thùy trước tuyến yên. Thông thường mỗi loại tế bào sẽ tiết một loại hormon (trường hợp đặc biệt ở đây là một loại tế bào có thể tiết cả luteinizing hormone và follicle-stimulating hormone).
Nếu sử dụng các chất nhuộm màu đặc biệt gắn với các kháng thể tương ứng cho mỗi loại hormon sẽ phân biệt được tứng loại tế bào.
Các loại tế bào trong thùy trước bao gồm:
(1)Somatotropes tiết hormon sinh trưởng (growth hormone) chiếm 30-40% số lượng tế bào thùy trước.
(2)Corticotropes tiết corticotropin (ACTH): chiếm 20%
(3)Thyrotropes tiết thyroid stimulating hormone (TSH)
(4)Gonadotropes tiết gonadotropic hormones bao gồm luteinizing hormone (LH) và follile stimulating hormone (FSH)
(5)Lactotropes tiết prolactin (PRL)
Các loại tế bào (3), (4), và (5) mỗi loại chiếm khoảng 3-5% tổng số lượng tế bào của tuyến.
Somatotropes bắt màu acid rất mạnh nên được gọi là acidophil. Khối u của tuyến yên tiết một lượng lớn hormon sinh trưởngđược gọi là acidophil tumor.
Thân các tế bào tiết của thùy sau tuyến yên nằm ở vùng dưới đồi thị. Sau khi tiết, hormon được vận chuyển xuông thùy dưới tuyến yên theo các axoplast của các sợi thần kinh từ thân tế bào kéo xuống.
Quan hệ vùng dưới đồi thị - tuyến yên
Vùng dưới đồi thị - tuyến yên
Quá trình tiết hormon của tuyến yên được điều khiển bởi các hormon hay các tín hiệu thần kinh của vùng dưới đồi thị.
Thí nghiệm cắt tuyến yên và chuyển đến một vị trí khác trong cơ thể cho thấy nhiều hormon của nó giảm mạnh và có loại hormon hoàn toàn không được tiết ra.
Hoạt động tiết của thùy sau tuyến yên được điều khiển bởi các sợi thần kinh kéo xuống từ vùng dưới đồi và tận cùng ở thùy sau. Ngược lại, quá trình tiết hormon của thùy trước do các hormon giải phóng hay hormon ức chế của vùng dưới đồi thị quyết định. Hormon giải phóng (hypothalamic releasing hormone) và hormon ức chế (hypothalamic inhibitory hormone) đựoc tiết ở vùng dưới đồi và xuống thùy trước theo các mạch cửa dưới đồi-tuyến yên (hypothalamic-hypophysial portal vessels). Các hormon này điều khiển quá trình tiết của các tế bào tiết trong thùy trước.
Vùng dưới đồi nhận tín hiệu từ hầu hết các nguồn trong hệ thần kinh (các kích thích gây đau đớn, gây hưng phần hay ức chế, kích thích khứu giác, kích thích do thay đổi nồng độ các chất dinh dưỡng, chất điện giải và hormon trong máu… đều được truyền về vùng dưới đồi gây hưng phấn hay ức chế các phần khác nhau của vùng dưới đồi). Vì vậy, có thể nói vùng dưới đồi thị là trung tâm thu nhận thông tin phản ánh trạng thái của cơ thể. Quá trình đáp ứng với các thông tin này biểu hiện ở quá trình điều khiển của nó đến hoạt động tiết hormon của tuyến yên.
Hệ thống cửa dưới đồi-tuyến yên
Thùy trước tuyến yên chứa nhiều xoang mạch xen kẽ với các tế bào tuyến. Các mạch máu xuống tuyến yên trước tiên đi qua vùng mao mạch thuộc phần dưới đồi sau đó qua gò trung gian (median eminance) nằm ở phần thấp nhất dưới đồi thị nối với cuống tuyến yên. Sau đó các mạch máu trở ngược lên bề mặt gò trung gian, kết hợp thành một khối gọi là hệ mạch cửa đồi thị - tuyến yên rồi đi xuống tuyến yên dọc theo cuống tuyến yên để đến các xoang mạch trong thùy trước
Hormon giải phóng và hormon ức chế
Những neuron đặc biệt trong vùng dưới đồi tổng hợp và tiết các hormon có tên hormon giải phóng và hormon ức chế của vùng dưới đồi thị (hypothalamic releasing hormone và hypothalamic inhibitory hormone) để điều khiển hoạt động tiết của thùy trước tuyến yên. Những neuron này có mặt ở nhiều phần khác nhau trong vùng dưới đồi thị, các sợi trục của chúng kéo đến thùy trung gian và củ vú (tuber cinereum là phần mô đồi thị kéo xuống cuống tuyến yên). Đầu tận cùng của các neuron này khác với hầu hết đầu mút thần kinh của các dây thuộc hệ thần kinh trung ương vì chúng không thực hiện chức năng truyền tín hiệu từ tế bào thần kinh này sang tế bào thần kinh khác mà chỉ làm nhiệm vụ tiết các hormon ức chế hay giải phóng. Các hormon này ngay lập tức được hấp thu vào các mao mạch của hệ thống mạch cửa dưới đồi-tuyến yên và chuyển đến thùy truớc tuyến yên. Các hormon ưc chế hay giải phóng còn được gọi là các yếu tố ức chế (inhibitory factors) hay yếu tố giải phóng (releasing factors) vì cấu trúc hóa học của chúng chưa được xác định.
Chức năng của hormon giải phóng và hormon ức chế
Hai hormon này có chức năng điều khiển hoạt động tiết của thùy trước tuyến yên. Ứng với mỗi hormon thùy trước có một hormon giải phóng. Một vài hormon có hormon ức chế tương ứng. Hormon giải phóng đóng vai trò quan trọng hơn so với hormon ức chế (trừ trường hợp prolactin). Các hormon giải phong và ức chế quan trọng là:
1.Thyroid-stimulating hormon releasing hormone kích thích giải phóng hormon kích thích tuyến giáp.
2.Growth hormone releasng hormone (GHRH) kích thích giải phóng hormon sinh trưởng. Growth hormone inhibitory hormone (GHIH) ức chế giải phóng hormon sinh trưởng.
3.Corticotropin-releasing (CRF) kích thích giải phóng adrenocortocotropin.
4.Luteinizing hormone releasing hormone (LRH) kích thích quá trình tiết luteinizing hormone và follicle-stimulating hormone. Vì vậy LRH được gọi là gonadotropin-releasng hormone.
5.Prolactin inhibitory factor (PIF) ức chế tiết prolactin.
Bên cạnh đó còn có hormone kíh thích tiết prolactin và ức chế tiết các hormon khác của thùy trước tuyến yên.
Tất cả hoặc hầu hết các hormon từ vùng dưới đồi được tiết từ các đầu mút thần kinh trong đồi trung gian trước khi được chuyển xuống thùy trước tuyến yên. Kích thích từ vùng này làm hưng phấn các đầu mút thần kinh dẫn đến sự giải phóng các yếu tố điều khiển của vùng dưới đồi. Tuy nhiên, thân tế bào thần kinh lại nằm xa hơn, trong đồi thị hay gần nền não với vị trí chưa được xác định rõ ràng.
Nhứng yếu tố khác của vùng dưới đồi có thể có ảnh hưởng đến quá trình tiết hormon
Các peptide kích thước nhỏ được tìm thấy trong các tế bào thần kinh của vùng dưới đồi nhưng chức năng của chúng vẫn còn đang được nghiên cứu: (1) substance P, (2)neurotensin, (3) angiotensin II, (4) enkephalins, (5) endorphins, (6)vasoactive inhibitory polypeptide và (7) cholesystokinin-8. Rất nhiều thành phần giống những chất này được tìm thấy trong các phần khác nhau của não bộ gợi ý rằng chúng có thể thực hiện chức năng như các chất truyền tín hiệu thần kinh ở cả vùng dưới đồi và những vị trí khác trong não bộ. Thêm vào đó, một số chúng có mặt trong thần kinh của đường tiêu hóa và có thể chúng được tiết ra từ các đầu mút thần kinh để đi vào máu.
Một số hormon của tuyến yên
Hormon sinh trưởng: Growth hormone
Chức năng của hormon sinh trưởng (growth hormone)
Hormon sinh trưởng, khác với các hormon khác do thùy trước tuyến yên tiết ra là nó không thực hiện chức năng thông qua một tuyến nội tiết khác mà ảnh hưởng đến hầu như toàn bộ các mô bào trong cơ thể.
Ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng:
Growth hormone (GH) còn được gọi là somatotropic hormone (SH) hay somatotropin là một protein có kích thước nhỏ với 191 a.a. tạo thành chuỗi đơn có khối lượng phân tử 22,005. Hormon kích thích tăng trưởng của tế bào (cả tăng về kích thước và kích thích quá trình phân bào). Thí nghiệm tiêm GH cho chuột chưa trưởng thành thấy tất cả các cơ quan tăng kích thước so với đối chứng. Khi đến tuổi trưởng thành chuột được tiêm GH không phát triển hơn về chiều dài xương nhưng tất cả các mô khác vẫn tiếp tục phát triển. Thí nghiệm này cũng cho thấy khi đĩa sinh trưởng của xương dài gắn với cán xương, xương sẽ không phát triển được thêm về chiều dài nhưng hầu hết các mô khác của cơ thể vẫn có thể tiếp tục tăng trưởng trong suốt cuộc đời.
Ảnh hưởng đến trao đổi chất
- Làm tăng cường tổng hợp protein ở tất cả mọi loại tế bào
- Tăng quá trình phân giải mô mỡ để giải phóng năng lượng
- Giảm sử dụng glucose
Tóm lại, GH làm tăng tônge hợp protein, tăng sử dụng mỡ và tăng chuyển hóa gluxit. Vì vậy có thể cho rằng tác dụng kích thích sinh trưởng của GH thông qua tác dụng làm tăng quá trình tổng hợp protein.
Vai trò của GH đối với quá trình tích lũy protein
Một số phương thức tác động của GH dẫn đến quá trình tích lũy protein như sau:
- Làm tăng quá trình vận chuyên amino acid qua màng tế bào dẫn đến tăng nồng độ amino acid trong tế bào. Nồng độ amino acid sẽ có tác động tăng cường quá trình tổng hợp protein. Tác động làm tăng nồng độ amino acid tương tự như tác động của insulin đến quá trình vận chuyển glucose (xem insulin, glucagon và bệnh tiểu đường).
- Làm tăng quá trình tổng hợp protein bởi ribosome: GH tác động trực tiếp đến các ribosome. Tuy vậy, cơ chế tác động vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
- Làm tăng cường quá trình sao mã DNA tạo các RNA trong nhân tế bào(sau khi tác động 24-48 giờ) từ đó làm tăng tổng hợp protein dẫn đến kích thích tăng trưởng nếu có đầy đủ các yếu tố khác như năng lượng, các amino acid, các vitamin…
- Làm giảm sử dụng protein thông qua kích thích sử dụng các axit béo (fatty acids) từ mô mỡ để giải phóng năng lượng cần thiết thay cho việc sử dụng protein.
Ảnh hưởng đến sử dụng mô mỡ
GH có tác dụng giải phóng fatty acid từ mô mỡ làm cho nồng độ của các fatty acid tăng trong các loại dịch thể. Thêm vào đó, trong các mô bào, GH làm tăng cường quá trình chuyển fatty acid thành acetyl CoA để sử dụng cho giải phóng năng lượng.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác dụng huy động fatty acid thay cho việc sử dụng protein là cơ chế quan trọng của GH dẫn đến quá trình sinh trưởng. Tuy vậy, GH cần đến vài giời để phát huy được tác động này trong khi đó chỉ cần thời gian tính bằng phút GH đã có thể kích thích tăng cường tổng hợp protein.
Ảnh hưởng đến trao đổi carbonhydrate
- Làm giảm sử dụng glucose: Cơ chế dẫn đến ảnh hưởng này vẫn đang được nghiên cứu. Có thể GH làm tăng cường huy động fatty acid dẫn đến tổng hợp một lượng lớn acetyl-CoA sinh ra các tín hiệu phản hồi khóa quá trình biến đổi glucose và glycogen.
- Tăng cường dự trữ glycogen: Vì glucose và glycogen không được huy động để giải phóng năng lượng nên glucose vào trong tế bào nhanh chóng được biến đổi thành glycogen dự trữ. Khi tế bào trở thành trạng thái "no" glycogen sẽ không thể dự trữ glycogen thêm nữa.
- Dừng quá trình hấp thu và tích lũy glucose tế bào và làm tăng nồng độ glucose trong máu: Khi đưa glucose vào cơ thể, lúc đầu quá trình chuyển glucose vào tế bào sẽ tăng làm cho nồng độ glucose trong máu giảm nhẹ. Tuy vậy, hiện tượng này dừng lại chỉ sau khoảng 30 phút đến 1 giờ sau đó sẽ dẫn đến tác động ngược lại (do giảm quá trình vận chuyển vì tế bào không thể thu nhận thêm glucose được nữa). Nếu không có sự hấp thu glucose, nồng độ glucose trong máu có thể sẽ tăng cao hơn 50-100 lần trong máu so với bình thường.
- Vai trò của insulin và carbonhydrate đối với GH.
Nếu động vật bị cắt tuyến tụy hay ăn khẩu phần không có carbonhydrate, GH sẽ không phát huy được tác dụng. Một trong những vai trò quan trọng của insulin và carbonhydrate là cung cấp năng lượng cần thiết cho sinh trưởng. Tuy nhiên insulin và carbonhydrate còn có nhiều ảnh hưởng quan trọng hơn đối với GH. Ví dụ insulin làm tăng cường quá trình vận chuyển amino acid và glucose.
GH làm tăng nồng độ glucose trong máu sẽ kích thích tế bào beta của đảo tụy tăng tiết insulin. Bên cạnh đó GH còn có tác động trực tiếp đến tế bào beta. Sự kết hợp của hai tác động này đôi khi dẫn đến hiện tượng kích thích quá mức tế bào beta làm cơ thể rơi vào tình trạng huy động "hết sạch" khả năng của tế bào này dẫn đến bệnh tiẻu đường. Chính vì vậy hormon sinh trưởng được cho là có tính bệnh nguyên của tiểu đường.
Tác dụng này cũng có thể sảy ra với một số hormon khác của tuyến yên như adrenocorticotropin, thyroid-stimulating hormon và prolactin. Đặc biệt adrenocorticotropin làm tăng tiết cortisol vỏ thượng thận dẫn đến tác động của cortosol tăng nồng độ glucose trong máu và có thể gây tác động tương tự như GH.
Tiểu đường do tuyến yên (pituitary diabetes): Tăng tiết GH hay một số hormon khác của tuyến yên dẫn đến sự sử dụng glucose của tế bào giảm có thể dẫn đến tăng nồng độ glucose trong máu dẫn đến hiện tiểu đường - pituitary diabetes (khác với diabetes mellitus -tiểu đường do thiếu insulin sẽ được trình bày ở chương insulin, glucagon và bệnh tiểu đường)
Phát triển của xương và sụn - vai trò của somatomedins
GH không làm tăng quá trình phát triển và phân chia của những tế bào tiền sụn một cách rõ ràng trong môi trường nuôi cấy nhân tạo nhưng làm tăng quá trình phát triển của mô sụn khi tiêm trực tiếp cho động vật. Như vậy, GH có tác động gián tiếp đến mô sụn và xương. Nghiên cứu cho thấy GH kích thích gan sản xuất một số protein có kích thước nhỏ (khối lượng phân tử trong khoảng 4500 đến 7500) gọi là các somatomedin có tác dụng kích thích mô xương và sụn phát triển. Một số somatomedin có tác dụng tăng cường quá trình lắng đọng chondroitin sulfate và collagen (những yếu tố cần thiết cho quá trình hình thành và phát triển của xương và sụn). Các somatomedin có tác động tương tự nhau nhưng có thể chỉ khác nhau về mức độ kích thích.
Khi đầu xương gắn với thân xương, xương không có khả năng phát triển về chiều dài nhưng vẫn có khả năng tăng độ dày do quá trình tạo xương vẫn sảy ra ở màng xương. Chính vì vậy, GH dù có được tiết nhiều sau thời kỳ trưởng thành vẫn không có khả năng làm tăng chiều cao cơ thể. Tuy nhiên, quá dư thừa GH chỉ kích thích phần thân xương tăng chiều dày. Phần chiều dày thân xương dư thừa không gắn được với đầu xương sẽ làm xương có hình dạng không cân đối. Ví dụ về hiện tượng này là dô xương hàm, dô xương trán...
Với nồng độ rất thấp somatomedin đã có tác dụng tưong tự như một GH ở nồng độ rất cao chứng tỏ hầu hết chức năng trao đổi chất của GH không thông qua ảnh hưởng trực tiếp của nó đến các mô mà thông qua tác dụng của các somatomedin.
Điều tiết tuyến yên tiết hormon sinh trưởng
Đã một thời gian rất dài người ta tin rằng quá trìnhg tiết GH chỉ sảy ra khi cơ thể đang tăng trưởng và dừng lại ở tuổi trưởng thành. Điều này khác xa với thực tế vì mức độ tiết GH ở cả hai thời kỳ này gần như tương đương nhau. Hơn nữa, sự tiết GH thay đổi liên tục (trong thời gian tình bằng phút) phụ thuộc vào các yếu tố dinh dưỡng và stress như tình trạng đói, hạ glycemia (hypoglycemia) hoặc nồng độ fatty acid trong máu quá thấp, vận động, bị kích thích hay bị chấn thương. GH cũng có thể được tăng tiết trong hai giờ đầu của giấc ngủ sâu.
Nồng độ trung bình của GH trong máu người trưởng thành khoảng 3 millimicrogam /ml và ở trẻ em là 5 millimicrogam/ml. Khi lượng protein hay carbonhydrate dự trữ cạn kiện, nồng độ này tăng rất cao và có thể tời mức 50 millimicrogram/ml. Nếu tiêm một số amino acid như arginine có thể làm tăng tiết GH.
Giảm protein trong tế bào một cách từ từ có quan hệ chặt chẽ hơn với quá trình tiết GH so với sự thay đổi nồng độ glucose. Kết quả nghiên cứu cho thấy dinh dưỡng protein có quan hệ mật thiết với GH. Chính vì vậy, điều chỉnh protein trong khẩu phần cần được ưu tiên khi muốn điều tiết quá trinhg tiết GH.
Quá trình tiết GH chịu ảnh hưởng bởi growth hormone releasing hormone (GHRH) và growth hormone inhibitory hormone (GHIH) (hay somatostatin) do vùng dưới đồi thị tiết ra và vận chuyển xuống tuyến yên qua hệ thống mạch cửa dưới đồi-tuyến yên (đã được đề cập ở phần trước). GHRH do nhân giữa bụng (ventromedial nucleus) của vùng dưới đồi tiết ra trong khi qua GHIH được điều khiển tại vùng lân cận với nhân này (cũng nằm trong vùng dưới đồi thị). Ventromedial nucleus còn mẫn cảm với hypoglycemia và gây cảm giác đói. Vì vậy ta có lý do để tin rằng một số tín hiệu làm thay đổi cảm giác thèm ăn có mối quan hệ với sự tiết hormon sinh trưởng (GH) như tình trạng quá xúc động, cơ thể bị tổn thương, stress... Thực nghiệm cũng cho thấy cholamine, dopamine, serotonin (do các hệ thống các nhau của vùng dưới đồi tiết ra) cũng làm tăng tiết GH.
Hầu hết các cơ chế điều khiển tiết GH thông qua GHRH. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng somatostatin còn được các tế bào delta của đảo tụy tiết ra và có khả năng ức chế tế bào alpha, beta của đảo tụy tiết insulin và glucagon tương tự như quá trình ức chế tuyến yên tiết GH. Điều này chứng tỏ somatostatin có vai trò quan trọng trong điều khiển các hệ thống nội tiết.
Cơ chế điều khiển tiết GH và thông tin phản hồi sẽ tiếp tục được cập nhật. (Mời viết bổ sung!)
Rối loạn tiết hormon sinh trưởng
1. Panhypopituitarism: Giảm tiết tất cả các loại hormon của thùy trước tuyến yên. Hiện tượng này có thể gặp từ lúc sơ sinh hay muộn hơn, trong bất kỳ giai đoạn sinh trưởng nào.
2. Dwarfism (nhỏ bé, còi cọc, tí hon): Có thể do thiểu năng tiết hormon của thùy trước tuyến yên trong thời kỳ đầu. Các phần của cơ thể vẫn có thể cân xứng với nhau nhưng toàn bộ cơ thể có kích thước nhỏ hơn bình thường. Một em bé 10 tuổi mắc hội chứng này có thể trông chỉ như một em bé 4-5 tuổi hay một thanh niên 20 tuổi trông chỉ như một em bé 7-10 tuổi.
Tuyến giáp và tuyến thượng thận của những người mắc hội chứng này vẫn có chức năng bình thường nhưng do cơ thể có kích thước nhỏ nên không cần nhiều hormon kích thích tuyến giáp trạng (thyroid stimulating hormone) và adrenocorticotropic hormone. Trí não phát triển bình thường. Nếu do thiếu hụt tất cả các loại hormon tuyến yên (panhypopituitary dwarf) sẽ không đủ lượng hormon sinh sản cần thiết, không đạt được đủ mức độ thành thục. Nếu chỉ thiếu hormon sinh trưởng, cơ thể vẫn có thể có chức năng tiết hormon sinh sản, thành thục và sinh sản. Một số trường hợp hiếm gặp (Lorain dwarf), GH vẫn được tiết ra ở mức độ bình thường nhưng somatomedins không được sản xuất.
GH ở các loài động vật khác nhau và chỉ có tác dụng với các cá thể của chính loài đó hay các cá thể của loài khác rất gần với nó. GH của các động vật không phát huy tác dụng được với người. Vì vậy, hormon sinh trưởng của người (human growth hormone - hGH) được dùng để phân biệt với GH của các động vật khác. Thật khó có đủ lượng hGH từ tuyến yên của người bình thường để điều trị cho những bệnh nhân thiểu năng tiết GH. May thay, hGH có thể được vi khuẩn Escherichia coli tổng hợp với kỹ thuật DNA tái tổ hợp (recombinant DNA technology) và được dùng trong y học.
3. Panhypopituitarism ở người trưởng thành có thể do hai loại khối u (craniopharyngiomas và chromophobe) chèn ép tuyến yên đến khi chức năng của các tế bào tuyến yên bị giảm trầm trọng hay bị đình trệ hoàn toàn. Bệnh cũng có thêt do huyết khối hình thành trong động mạch nuôi tuyến yên (trường hợp này hay gặp khi phụ nữ bị sốc tuần hoàn máu sau khi sinh).
Ảnh hưởng của chứng bệnh này bao gồm: Giảm chức năng tuyến giáp trạng (hypothyroidism), giảm tiết glucocorticoid của tuyến thượng thận, ức chế tiết hormon sinh sản. Ngoại trừ hiện tượng rối loại khả năng sinh sản, các triệu chứng khác có thể được hạn chế bằng cách tiêm hormon vỏ thượng thận và hormon tuyến giáp trạng.
4. Giantism (chứng khổng lồ): Thường do các tế bào acildophil (các tế bào sản xuất GH) hoạt động quá mức hoặc thậm chí do khối u tế bào acildophil trong tuyến yên. GH được sản xuất với một lượng lớn, tất cả các mô phát triển nhanh quá mức và cơ thể có thể trở thành người khổng lồ.
Người mắc hội chứng này thường bị hyperglycemia, tăng quá trình phân chia của tế bào beta trong đảo tụy nên khoảng 10% bị mắc tiểu đường.
Nếu khối u acildophil không được điều trị, bệnh nhân dễ mắc chứng thiểu năng tuyến yên do tuyến bị phá hủy và có thể bị chết trước khi đến tuổi trưởng thành. Nếu được phát hiện sớm, khối u có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật hay xạ trị.
5. Acromegaly: Nếu khối u acildophil hình thành khi đã qua tuổi trưởng thành, cơ thể sẽ không tăng được về chiều cao nhưng các mô mềm và các xương nhỏ ở bàn chân, bàn tay tiếp tục phát triển và xương tăng về độ dày; các xương sơ cấp (hình thành do quá trình cốt hóa màng) như các xương vùng sọ, vùng mặt vẫn tiếp tục phát triển dẫn đến các hiện tượng như cằm dô, trán dô, bàn chân và bàn tay to, mũi to quá cỡ, lưng gù, các cơ quan như lưỡi, gan, thận...có kích thước quá cỡ.
Hormon chống lợi tiểu: Antidiuretic hormone (vasopressin)
Quan hệ vùng dưới đồi thị - Thùy sau tuyến yên
Thùy sau tuyến yên (posterior pituitary) được gọi là thùy thần kinh với các tế bào có đặc điểm của tế bào thần kinh (các pituicytes)chiếm đa số. Tuy nhiên, các pituicyte không tiết hormon mà đóng vai trò như cấu trúc hỗ trợ cho các dây thần kinh từ nhân trên thị (supraoptic nucleus) và nhân cạnh buồng não (paraventricular nucleus) thuộc phần dưới đồi. Các đường dẫn thần kinh này đi xuống thùy sau tuyến yên theo cuống tuyến yên (pituitary stalk). Đầu mút của các dây này kết thúc ở các mao mạch trong thùy sau tuyến yên và tiết hai loại hormon là antidiuretic hormone (ADH) (còn được gọi là vasopressin) và oxytocin.
Nếu cắt cuống tuyến yên tại chỗ tiếp giáp với tuyến, hai hormon này được tiết bình thường sau vài ngay nhưng sau đó quá trình tiết được thực hiện tại các đầu mút bị cắt tại vùng dưới đồi chứ không phải tại các đầu mút tận cùng trong tuyến yên. Như vậy, hormon đựoc tiết từ các nhân trong phần dưới đồi thị và được vận chuyển xuống thùy sau tuyến yên bởi các protein vận chuyển (các neurophysin). Quá trình vận chuyển này mất khoảng vài ngày.
ADH được tạo thành trong supraoptic nucleus còn oxytocin được tiết từ paraventricle nucleus.
Trong điều kiện nghỉ ngơi, một số lượng lớn hai hormon này được chứa trong các hạt tiết trong thùy sau ở trạng thái kết hợp lỏng lẻo với neurophysin tương ứng. Khi có kích thích đặc hiệu, cả hormon và neurophysin đều được tiết ra. Sự tách hormon khỏi các neurophysin chỉ sảy ra tức thì. Chức năng của các neurophysin sau khi tách khỏi hormon tại các đầu mút thần kinh vẫn đang được nghiên cứu.
Tính chất hóa học của antidiuretic hormone và oxytocin
Cả hai hormon này đều là các peptide có 9 amino acid:
Vasopressin: Cys-Tyr-Phe-Gln-Asn-Cys-Pro-Arg-GlyNH2
Oxytocin: Cys-Tyr-Ile-Gln-Asn-Cys-Pro-Leu-GlyNH2
Hai chuỗi amino acid gần như tương đồng. Ở Vasopressin, phenylalanine và arginine thay thế cho isoleucin và leucine.
Cấu tạo của hai hormon này giải thích tại sao chúng thực hiện các chức năng tương tự nhau.
Chức năng của ADH (vasopressin)
Khi tiêm một lượng rất nhỏ (2 millimicrogram)ADH đã có tác dụng chống bài tiết nước tiểu ở thận. Nếu không có mặt ADH các ống thận hầu như mất tính thấm đối với nước dẫn đến giảm đột ngột khả năng tái hấp thu nước của các ống thận làm cho lượng nước tiểu tăng đột ngột. Khi có mặt ADH, tính thấm của các ống thận tăng làm cho nước được tái hấp thu trở lại và lượng nước trong cơ thể tăng.
Cơ chế tác dụng của hormon có thể được hiểu như sau: Hormon kết hợp với các receptor tại các tế bào biểu mô ống thận kích thích các tế bào tổng hợp một lượng lớn cAMP. Các cAMP tác động lên lớp màng tế bào phía lòng ống thận làm mở các khe tạo điều kiện cho nước có thể đi vào tế bào từ trong lòng ống. Tuy nhiên cơ chế tác dụng của cAMP làm mở các khe trên màng vẫn chưa được biết rõ.
Điều tiết ADH
Điều tiết thẩm thấu:
Khi tiêm dung dịch điện giải vào động mạch tới vùng dưới đồi, các ADH neuron sẽ lập tức chuyển xung động xuống thùy sau tuyến yên làm cho ADH được tiết ngay tức thì. Nếu chỉ tiêm nước cất sẽ thấy tác dụng ngược lại.
1/2 ADH bị phá hủy trong chu kỳ 15-20 phút vì thế nồng độ ADH trong các dịch cơ thể luôn thay đổi.
Có quan điểm cho rằng các neuron nằm gần nhưng tách rời các ADH neuron đóng vai trò như các receptor thẩm thấu (osmoreceptors)và có thể thay đổi kích thước tùy theo nồng độ của các dung dịch ngoại bào.
Vai trò điều tiết nồng độ ion Na trong dịch ngoại bào của ADH
Trong điều kiện bình thường, khoảng 95% áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào được quyết đinh bởi nồng độ ion Na. Vì vậy ADH với chức năng điều tiết tính thẩm thấu của dịch ngoại bào cũng có nghĩa là điều tiết nồng độ của ion Na. Biến đổi nồng độ ion Na làm thay đổi sự tiết ADH.
Kích thích tiết ADH bởi sự thay đổi thể tích máu
Nống độ ADH từ trung bình đến cao sẽ làm co động mạch dẫn đến tăng huyết áp. Một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiết ADH là sự thay đổi thể tích máu. Mất 10% thể tích máu sẽ làm tăng tiết ADH. Mất 25% thể tích máu sẽ làm lượng ADH được tiết cao gấp 50 lần so với lượng ADH tiết ra trong điều kiện bình thường. Khi lượng máu giảm sẽ làm cho áp suất tâm nhĩ giảm. Các cơ quan thụ cảm ở thời kỳ tâm nhĩ giãn (the atrial strech receptors) kích thích tiết ADH. Tuy nhiên các baroreceptor trong động mạch cổ, cung động mạch chủ và động mạch phổi cũng tham gia vào cơ chế điều tiết này.
Nồng độ ADH trong máu vào khoảng 1-2 pg/ml nhưng có ảnh hưởng đến suất động mạch. Cũng với ảnh hưởng này, ADH còn được gọi là vasopressin.
Những yếu tố khác ảnh hưởng đến sự tiết ADH
Bao gồm các yếu tố gây tổn thương cơ giới, gây đau, sự lo lắng, các loại thuốc như morphine, nicotine, thuốc gây tê, gây mê (các loại thuốc này thường dẫn đến hiện tượng giữ lại nước trong cơ thể). Điều này giải thích tại sao khi trải qua trạng thái quá xúc động sẽ có hiện tượng lợi tiểu
Cồn sẽ ức chế tiết ADH nên trong các "cuộc chiến với rượu" sẽ có hiện tượng lợi tiểu. Cồn cũng có thể làm giãn mạch trong các tiểu thể thận dẫn đến tăng bài tiết nước tiểu.
Diabetes Insipidus (DI):
DI là một bệnh sảy ra khi hệ thống điều khiển tiết ADH tại đồi thị- tuyến yên không thực hiện được chức năng chủ yếu do các neuron trong supraoptic nucleus và paraventricle nucleus bị tổn thương. Trong trường hợp thùy sau tuyến yên hay cuống tuyến yên bị tổn thương cũng không dẫn đến bệnh này do các dây thần kinh bi cắt vẫn tiếp tục giải phóng ADH.
DI dẫn đến tăng cường thải nước tiểu, nước tiểu luôn bị "loãng", cơ thể luôn trong tình trạng thiếu nước và có cảm giác khát.
DI thường gặp trong các trường hợp bệnh nhân bị khối u ở cùng dưới đồi thị hay u tuyến yên làm phá hủy phần cấu tạo thuộc vùng dưới đồi có chức năng điều khiển quá trình tiết ADH. Phương pháp điều trị bệnh này là tiêm ADH (vasopressin) hai ngày một lần.
Tiết quá nhiều ADH và hội chứng do tiết ADH với lượng không thích hợp:
Thường do khối u tại một số cơ quan (ví dụ khối u phế quản trong phổi). Tiết ADH quá mức làm giảm nồng độ ion Na trong dịch nội bào nhưng lượng nước trong cơ thể tăng không đáng kể.
Các ảnh hưởng khác của ADH
Liều lớn ADH làm co hầu hết cơ trơn kể cả cơ thành ruột, ống dẫn mật và tử cung. Tuy vậy, nồng độ để gây tác dụng co cơ này rất cao so với nồng độ tác động làm giảm bài tiết nước tiểu. Đây là một biểu hiện hay một ảnh hưởng sinh lý bình thường?
Một số nhà tâm lý học cho rằng ADH được tiết vào vùng dưới đồi hoặc các vùng lân cận làm tăng khả năng duy trì trí nhớ.
Oxytocin
Tác dụng đến tử cung
Oxytocin kích thích co cơ trơn tử cung đặc biệt là giai đoạn cuối của thai kỳ. Nhiều nhà khoa học cho rằng hormon này có ảnh hưởng nhất định đến quá trình đẻ dựa trên những cơ sở sau:
- Ở động vật bị cắt bỏ tuyến yên (hypophysectomized) thời gian đau đẻ kéo dài;
- Nồng độ oxytocin trong huyết tương tăng trong thời gian đau đẻ, đặc biệt trong thời điểm trước khi thai được đẩy ra ngoài;
- Kích thích cổ tử cung động vật mang thai dẫn đến các tín hiệu thần kinh truyền đến vùng dưới đồi làm tăng tiết oxytocin.
Ảnh hưởng đến tiết sữa
Oxytocin đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tiết sữa thông qua tác dụng làm co bóp các xoang sữa để đẩy sữa vào các ống dẫn tạo điều kiện cho trẻ bú dễ dàng. Cơ chế của hiện tượng này được tóm tắt như sau:
Kích thích do động tác bú của trẻ lên đầu vú tạo các tín hiệu thần kinh truyền từ các đầu mút thần kinh cảm giác về não.
Các tín hiệu qua thân não cuối cùng được chuyển đến các neuron tiết oxytocin (oxytocin neurons) nằm trong nhân cạnh não thất (paraventricular nucleus) và nhân trên thị (supraoptic nucleus) tại vùng dưới đồi làm tiết oxytocin.
Oxytocin theo máu đến tuyến vú làm co bóp các tế bào biểu mô ống dẫn sữa.
Chưa đến 1 phút sau khi có kích thích bú của trẻ, sữa bắt đầu chảy ra từ núm vú của mẹ.
Chi tiết về sinh lý tiết sữa được trình bày trong phần sinh lý mang thai và tiết sữa.