TÀI LIỆU

Văn 6 - Bài 5: Vì sao người ta viết văn tự sự

Social Sciences
PHẦN 2

Tác phẩm tự sự

BÀI 5

Vì sao người ta viết văn tự sự

Hướng dẫn học

Bạn đã học một bài tổng quát về sự ra đời tác phẩm nghệ thuật. Ta đã biết về đặc điểm chung nhất này: tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm của người nghệ sĩ, kiểu người có đôi mắt ướt. Những con người thương đời, thương người hết mực! Cảm hứng khiến họ làm ra tác phẩm nghệ thuật bắt nguồn từ lòng yêu thương mênh mông đó.

Tiếp đó, bạn đã học bài về sự ra đời của tác phẩm thơ. Bạn đã thấy ngay từ bài thơ mẫu (“Ru con”) một tấm lòng tác giả gửi vào nỗi niềm người mẹ ru con, mà cũng lại là nỗi lòng rối bời của người mẹ (hoặc là và cũng là nhà thơ) tự nói với mình – và nói bằng những lời lẽ của một tâm hồn rất trong sáng. Bạn đã thấy một người mẹ buồn mà không oán hận, thương thân mà không trách móc, và luôn luôn nhất mực yêu con, yêu mình, yêu đời.

Tới bài này, bạn sẽ học về sự ra đời của tác phẩm tự sự. Bạn sẽ được học điều này: nỗi lòng của nhà văn (viết văn tự sự) hoặc nhà thơ (làm thơ trữ tình), cả hai kiểu người nghệ sĩ đó đều có “đôi mắt ướt” như nhau. Nhưng chỗ khác nhau giữa nhà thơ và nhà văn nằm trong cách nói lên nỗi lòng của họ. Bạn nên dùng mô hình diễn đạt sau để ghi nhận vắn tắt các cách diễn đạt (A) để từ đó tự đến cảm nhận cái được diễn đạt (B).

Thơ trữ tình

A

  • Tâm sự ngắn gọn
  • Không giải thích
  • Gợi cảm
                                                

Văn tự sự

A

  • Câu chuyện mang tâm sự
  • Có chi tiết để giải thích
  • Gợi nhận thức

B

(cảm nhận của bạn về cái được diễn đạt)

B

(cảm nhận của bạn về cái được diễn đạt)

 

  1. Mở đầu

       Trước đây, sách báo thường nói đến văn xuôi thơ – nay cần nói cho chính xác hơn: tự sự và trữ tình (hoặc “văn tự sự” và “thơ trữ tình”).

       Cách gọi “văn xuôi” và “thơ” là do phân biệt từ bề ngoài – vì thấy “thơ” thì có vần vè, còn “văn xuôi” thì được đọc tuồn tuột từ đầu chí cuối không ngắt nghỉ từng câu như thơ.

       Nay chúng ta gọi tự sự và trữ tình là căn cứ theo tính chất bên trong – hoặc căn cứ vào cách thức làm ra tác phẩm thuộc thể loại đó.

       2. Phân biệt TRỮ TÌNH và TỰ SỰ

       Trữ tình có nội dung bên trong là một tâm sự được ghi lại trong một chữ nào đó. Chúng ta tưởng tượng, có một người xa nhà nhớ mẹ, chiều hôm đó sau khi nghỉ việc thì ngồi bên chén nước, người đó nhúng ngón tay vào chén nước và viết xuống mặt bàn một chữ Buồn, lát sau lại viết chữ Mẹ, và lát sau nữa thì lẩm nhẩm cho riêng mình nghe:

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương

       Người đó đã tạo ra một tiếng nói trữ tình. Giảng nghĩa “trữ tình” là gì thật khó, nhưng cũng không khó lắm – nhà thơ hay nhà văn đều dùng chữ để viết văn và làm thơ. Nhưng lời lẽ của nhà thơ không dùng để giải thích những điều này nọ (ví dụ, mẹ tôi ở đâu, tôi nhớ mẹ như thế nào, nhớ mẹ thì tôi sẽ làm gì, v.v... ). Lời lẽ nhà thơ khác với lời lẽ của người viết văn tự sự. Một câu chuyện kể cần nhiều lời hơn (cộng với những yếu tố khác nữa) được dùng để giải thích những điều được kể ra.

       Tự sự có nội dung bên trong là một câu chuyện được kể ra. Một nhà văn có tài thường kể một câu chuyện sao cho bạn đọc xúc động mạnh. Nhà văn có tài thường tạo cho bạn đọc có được cảm giác được chứng kiến cả một câu chuyện có thực – chính cái chuyện đã làm cho nhà văn xúc động mạnh. Thực ra, nhà văn chỉ kể những câu chuyện như là có thực thôi. Tài năng của nhà văn khi viết văn tự sự cũng giống như tài nấu canh ngon của bà nội trợ. Nếu chỉ kể “chuyện hoàn toàn có thực” ở đời, thì chẳng khác gì ăn canh theo lối nhai một miếng rau, rồi thêm miếng thịt, rồi húp thìa nước sôi và nhấm tí muối… Bát canh ngon là sự hòa trộn của các vị được chế biến thành một tổng thể chứ không là nơi nhộn nhạo những “hương vị” khác nhau. Điều thú vị là những câu chuyện như thật này thường lại được người đọc thừa nhận là thật hơn chuyện thật. Đã có nhà văn nào xuống địa ngục đâu - ấy thế mà chuyện nhà văn kể về địa ngục lại rất hấp dẫn! (Nội dung này chúng ta sẽ còn học rất kỹ trong sách Văn lớp Bảy và lớp Tám).

       Trong phạm vi lớp Sáu, việc học Văn tạm giới hạn trong việc đi tìm cảm hứng và động cơ sáng tác của tác giả. Các tác phẩm được học trong sách Văn lớp Sáu này đều chỉ nhằm vào một mục tiêu: CẢM HỨNG SÁNG TÁC của các tác giả và của mỗi tác giả - vì sao nhà văn (hoặc nhà thơ, nhà soạn kịch, hoặc họa sĩ...) lại làm ra tác phẩm đó.

       3. Tìm cảm hứng của người viết văn tự sự

       Làm cách gì để đoán được vì sao một nhà văn đã viết văn tự sự? Phải dựa vào một số căn cứ để từ đó đi tìm thông điệp nhà văn gửi cho người đọc.

       Trong cuộc sống, con người bình thường hễ làm một việc gì cũng có mục đích. Làm nhà là để ở, để che nắng mưa, để thoát khỏi cảnh sống trong hang động. Làm ra cái áo phao là để không bị đuối nước. Làm ra cái lưới là để có cá mà ăn. Nhà hoạt động nghệ thuật thì hơi khác: hễ có cảm hứng thì họ làm ra sản phẩm nghệ thuật. Nếu nói vẽ tranh nhằm mục đích bán lấy tiền, thì người xưa vẽ tranh trong hang động để bán cho ai? Người mẹ làm bài thơ để ngẫm nghĩ về thân phận mình với những tình cảm rối bời, sau đó đem hát ru con, nhà thơ đó sẽ in thơ trên báo nào hoặc in thành sách ở đâu? Không ở đâu hết! Người nghệ sĩ chỉ có cảm hứng sáng tác thay cho mục đích. Cảm hứng trước hết!

       Tiếp theo đây, bạn sẽ đọc một tác phẩm tự sự – truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao). Các bạn hãy thực hiện mấy việc làm như được hướng dẫn, sau đó sẽ cùng tìm ra lý do nhà văn có cảm hứng viết văn tự sự.

       Đây là những việc bạn cần làm:

       Việc 1 – Bạn đọc một vài lần cả câu chuyện. (Sau này, khi đã quen với thể văn tự sự, bạn có thể chỉ cần đọc một lần, ngay cả với những tác phầm tự sự dài nhiều tập, nhiều trăm trang, có khi cả nghìn trang).

       Việc 2 – Bạn dựa vào các câu hỏi hoặc các việc làm được giao sau khi đọc (in ở cuối bài này) và thực hiện đầy đủ như hướng dẫn. Chú ý khi ghi lại một ý tưởng của mình, bạn nên ghi thành những đoạn văn 5 câu như vẫn làm từ lớp Bốn và lớp Năm. Kỷ luật ghi chép đó rất có ích cho bạn.

       Việc 3 – Cuối cùng, bạn cần suy nghĩ kỹ để viết một tiểu luận trả lời câu hỏi vì sao nhà văn Nam Cao viết truyện ngắn “Lão Hạc”? Một khi đã hiểu cảm hứng viết tự sự với trường hợp Nam Cao, bạn sẽ có được cách làm việc vừa đủ để hiểu các trường hợp khác với các tác phẩm tự sự khác.

Mời bạn bắt đầu.


 

LÃO HẠC

Truyện ngắn Nam Cao

       Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã thông điếu và bỏ thuốc rồi.

       Tôi mời lão hút trước. Nhưng lão không nghe...

       - Ông giáo hút trước đi.

       Lão đưa đóm cho tôi...

       - Tôi xin cụ...

       Và tôi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tôi rít một hơi xong, thông điếu rồi mới đặt vào lòng lão. Lão bỏ thuốc, nhưng chưa hút vội. Lão cầm lấy đóm, gạt tàn, và bảo:

       - Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!

       Lão đặt xe điếu, hút. Tôi vừa thở khói, vừa gà gà đôi mắt của người say, nhìn lão, nhìn để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của

       Nhà văn Nam Cao lão đó thôi. Thật ra thì trong lòng tôi rất dửng dưng. Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết rằng: lão nói là nói để có đấy thôi; chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật nữa thì đã sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế.

       Lão hút xong, đặt xe điếu xuống, quay ra ngoài, thở khói. Sau một điếu thuốc lào, óc người ta tê dại đi trong một nỗi đê mê nhẹ nhõm. Lão Hạc ngồi lặng lẽ, hưởng chút khoái lạc con con ấy. Tôi cũng ngồi lặng lẽ. Tôi nghĩ đến mấy quyển sách quý của tôi. Hồi bị ốm nặng ở Sài Gòn tôi bán gần hết cả áo quần, nhưng vẫn không chịu bán cho ai một quyển. ốm dậy, tôi về quê, hành lý chỉ vẻn vẹn có một cái va-ly đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng niu! Tôi đã nguyện giữ chúng suốt đời, để lưu lại cái kỷ niệm một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng: mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét... Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần.

       Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai, và bán hết mọi thứ rồi, tôi lại phải bán đi một ít sách của tôi. Sau cùng chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định, dù có phải chết cũng không chịu bán. ấy thế mà tôi cũng bán! Mới cách đây có hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng lỵ gần kiệt sức... Không! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tý gì đâu? Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi... Tôi nghĩ thầm trong bụng thế. Còn Lão Hạc, lão nghĩ gì? Ðột nhiên lão bảo tôi:

       - Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo ạ!

       À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão. Nó đi cao su năm sáu năm rồi. Hồi tôi mới về, nó đã hết một hạn công-tác. Lão Hạc, đem thư của nó sang, mượn tôi xem. Nhưng nó xin đăng thêm hạn nữa... Lão vội cắt nghĩa cho tôi hiểu tại sao lão đang nói chuyện con chó, lại nhảy vọt sang chuyện thằng con như vậy:

       - Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt...

       Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta đã định rồi chẳng bao giờ người ta làm được. Hai đứa mê nhau lắm. Bố mẹ đứa con gái biết vậy, nên cũng bằng lòng gả. Nhưng họ thách nặng quá: nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn cau, còn rượu... cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc không lo được. Ý thằng con lão, thì nó muốn bán vườn, cố lo cho bằng được. Nhưng lão không cho bán. Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ? Vả lại bán vườn đi, thì cưới vợ về, ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu đằng nhà gái họ cứ khăng khăng đòi như vậy, thì dẫu có bán vườn đi cũng không đủ cưới. Lão Hạc biết vậy đấy, nhưng cũng không dám xẵng. Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu. Lão khuyên nó hãy dằn lòng bỏ đám này, để rồi gắng lại ít lâu, xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu ; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác ; làng này đã chết hết con gái đâu mà sợ?... Lạy trời lạy đất! Nó cũng là thằng khá, nó thấy bố nói thế thì nó thôi ngay, nó không đả động đến việc cưới xin gì nữa. Nhưng nó có vẻ buồn. Và lão biết nó vẫn theo đuổi con kia mãi. Lão thương con lắm. Nhưng biết làm sao được?... Tháng mười năm ấy, con kia đi lấy chồng; nó lấy con trai một ông phó lý, nhà có của. Thằng con lão sinh phẫn chí. Ngay mấy hôm sau, nó ra tỉnh đến sở mộ phu, đưa thẻ, ký giấy xin đi làm đồn điền cao su...

       Lão rân rấn nước mắt, bảo tôi:

       - Trước khi đi, nó còn cho tôi ba đồng bạc, ông giáo ạ! Chả biết nó gửi thẻ xong, vay trước được mấy đồng, mà đưa về cho tôi ba đồng. Nó đưa cho tôi ba đồng mà bảo: “Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà; xưa nay con ở nhà mãi cũng chẳng nuôi được bữa nào, thì con đi cũng chẳng phải lo; thầy bòn vườn đất với làm thuê làm mướn thêm cho người ta thế nào cũng đủ ăn; con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm!...”. Tôi chỉ còn biết khóc, chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta.

       Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi?...

       Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó cùng ăn. Những buổi tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới chân. Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế này:

       - Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không có thư về… Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm... Không biết cuối năm nay bố cậu có về không? Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy!

       Con chó vẫn hếch mồm lên nhìn chẳng lộ một vẻ gì; lão lừ mắt nhìn trừng trừng vào mắt nó, to tiếng dọa:

       - Nó giết mày đấy! Mày có biết không? Ông cho thì bỏ bố!

       Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đuôi mừng, để lấy lại lòng chủ. Lão Hạc nạt to hơn nữa:

       - Mừng à? Vẫy đuôi à? Vẫy đuôi thì cũng giết! Cho cậu chết!

       Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi, vừa chực lảng. Nhưng lão vội nắm lấy nó, ôm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí:

       - À không! À không! Không giết cậu Vàng đâu nhỉ!... Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...

       Lão buông nó ra để nhấc chén, ghé lên môi uống. Lão ngẩn mặt ra một chút, rồi bỗng nhiên thở dài. Rồi lão lẩm bẩm tính. Ðấy là lão tính tiền bòn vườn của con...

       Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng: “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức còn rẻ cả... Của mẹ nó tậu, thì nó hưởng. Lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền cưới vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn...”. Lão tự bảo lão như thế, và lão làm đúng như thế. Lão làm thuê để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được một trăm đồng bạc...

       Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi:

       - Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi… Một trận đúng hai tháng, mười tám ngày, ông giáo ạ! Hai tháng mười tám ngày đã không làm ra được một xu, lại còn thuốc, lại còn ăn... ông thử tính ra xem bao nhiêu tiền vào đấy?...

       Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Ðàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa mầu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một tí gì bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt...

       - Thì ra cậu Vàng cậu ấy ăn khoẻ hơn cả tôi ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ấy ăn thế, bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được? Mà cho cậu ấy ăn ít thì cậu ấy già đi, bán hụt tiền, có phải hoài không? Bây giờ cậu ấy béo trùng trục, mua đắt, người ta cũng thích...

       Lão ngắt lại một phút, rồi tắc lưỡi:

       - Thôi thì bán phắt đi! Ðỡ được đồng nào, hay đồng ấy. Bây giờ tiêu xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Tôi bây giờ có làm gì được đâu?

       Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay:

       - Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!

       - Cụ bán rồi?

       - Bán rồi! Họ vừa bắt xong.

       Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc.

       Tôi hỏi cho có chuyện:

       - Thế nó cho bắt à?

       Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...

       - Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi ; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!

       Tôi an ủi lão:

       - Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả biết đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt? Ta giết nó chính là hoá kiếp cho nó đấy, hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác.

       Lão chua chát bảo:

       - Ông giáo nói phải! Kiếp cho chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn...

       Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo:

       - Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

       - Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng.

       Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:

       - Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc ; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.

       - Vâng! Ông giáo dạy phải! Ðối với chúng mình thì thế là sung sướng.

       Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại.

       Tôi vui vẻ bảo:

       - Thế là được, chứ gì? Vậy cụ ngồi xuống đây, tôi đi luộc khoai, nấu nước.

       - Nói đùa thế, chứ ông giáo cho để khi khác?...

       - Việc gì còn phải chờ khi khác?... Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại. Cụ cứ ngồi xuống đây! Tôi làm nhanh lắm...

       - Ðã biết, nhưng tôi còn muốn nhờ ông một việc...

       Mặt lão nghiêm trang lại...

       - Việc gì thế, cụ?

       - Ông giáo để tôi nói... Nó hơi dài dòng một tí.

       - Vâng, cụ nói.

       - Nó thế này, ông giáo ạ!

       Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó... Việc thứ hai: Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào: con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt: lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...

       Tôi bật cười bảo lão:

       - Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?

       - Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu?

       - Ðã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?...

       Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.

       Thấy lão nằn nì mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi còn hỏi:

       - Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả thì cụ lấy gì mà ăn?

       Lão cười nhạt bảo:

       - Ðược ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong.

       Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi:

       - Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói.

       Chao ôi! Ðối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ối... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vây, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

       Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão cứ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...

       Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dư tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn về việc ấy với binh Tư.

       Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi: Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:

       - Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó...

       Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:

       - Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.

       Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết... Một người như thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm đáng buồn...

       Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Tôi ở nhà binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những tiếng nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến trước tôi đang xôn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào.

       Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu. Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Ðến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Ðây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn: cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”

Việc làm sau khi đọc tác phẩm

  1. Đọc lại đoạn vào truyện. Qua đoạn này, bạn thấy tác giả viết nhằm mục đích gì? Để khoe với bạn về việc thân thiết với Lão Hạc? Hay là để nói chuyện hút thuốc lào?
  2. Bạn có để ý câu nói đột ngột này của Lão Hạc không: “Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!” Nhân vật nhà văn có chú ý đến câu nói đó của Lão Hạc không? Câu nào cho thấy nhà văn vẫn hờ hững không chú ý đến câu nói đó?
  3. Bạn hãy đọc đoạn tiếp theo và kể tóm tắt gia cảnh của Lão Hạc. Lão đã kể cho nhà văn những gì? Bạn thử lẩm nhẩm những điều tâm sự với nhà văn như Lão Hạc đã làm.
  4. Bạn đọc thầm, học thuộc đoạn văn đó thì tốt, rồi bạn bắt chước cách Lão Hạc âu yếm con chó nhà lão như mô tả trong đoạn văn đó. Khi lão âu yếm con chó như thế, lão yêu con chó hơn hay đang nhớ con trai lão? Bạn có thể thêm gì như một lời nói riêng với con trai trong khi âu yếm con chó.
  5. Bạn hãy đọc thầm, học thuộc đoạn văn đó thì tốt, khi Lão Hạc kể cho ông giáo nghe việc Lão đã phản bội con chó yêu của mình ra sao.
  6. Binh Tư, tên ăn trộm chuyên nghiệp, đã làm cho nhân vật ông giáo nghi ngờ phẩm chất tốt đẹp của Lão Hạc như thế nào?
  7. Có đúng là Lão Hạc bắt trộm chó không? Kết cục câu chuyện có gì đột ngột với người đọc?
  8. Cuối cùng, bạn hãy đoán xem cảm hứng viết ra câu chuyện tự sự Lão Hạc của Nam Cao là gì? Điều gì thôi thúc Nam Cao nhất quyết phải kể ra câu chuyện này?
  9. Nếu bạn là nhà văn Nam Cao, do yêu cầu của nhà xuất bản muốn đổi tên truyện ngắn Lão Hạc,bạn sẽ đổi thành tên gì khác? Bạn lý giải việc đổi tên đó như thế nào?