Bảo hiểm xã hội

Những nhận thức chung về bảo hiểm xã hội

Sự cần thiết của hệ thống Bảo hiểm xã hội

Sự ra đời của hệ thống Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những sáng tạo sáng chói của loài người trong lịch sử phát triển xã hội. Ý tưởng về BHXH được xem là một ý tưởng về chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại tiết kiệm tư bản.

Bảo hiểm xã hội hình thành từ nhận thức rằng nền kinh tế thị trường cạnh tranh không phân phát thành quả của nó một cách công bằng cho tất cả mọi người, và hệ thống quản lý kinh tế thị trường đôi khi bị suy nhược. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh về lợi ích và chi phí, nhưng cả hai yếu tố này (lợi ích và chi phí) thì không được chia sẻ đồng đều.

Vì vậy, BHXH là một sự thu nhận tư bản khôn ngoan trên phần đóng gióp của những nhà ủng hộ nền kinh tế cạnh tranh. Đồng thời nó nói lên thực tế rằng công dân có thể gặp phải những rủi ro do nền kinh tế này mang lại như tình trạng thất nghiệp, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc do tuổi già, do đó công dân cần được bảo đảm một mức độ an toàn nhất định để chống lại các rủi ro trên.

Năm 1910, Henry Rogers Seager, một nhà kinh tế học thuộc Viện Đại học Columbia đã viết: chúng ta cần phải đi đến một sự nhất trí rằng ý tưởng về BHXH là ý tưởng đạo đức và đáng được khen ngợi cho cơ chế mà mỗi người trong chúng ta tự chăm sóc cho quyền lợi của chính mình. Sẽ sai lầm nếu có ai đó nghĩ rằng sự tư lợi trong ý nghĩa này đồng nghĩa với sự ích kỷ.

Adam Smith khẳng định rằng đối với một người bình thường ở trong điều kiện bình thường khi đã đóng góp phần lớn những lợi ích mà anh ta theo đuổi cho xã hội, thì anh ta phải được xã hội nói chung, từng xí nghiệp cụ thể nói riêng chăm lo cho anh ta, và sự chăm lo này chính là biểu hiện của hành động hợp tác và giúp đỡ của tập thể dành cho cá nhân.

Seager sau đó nêu lên những rủi ro cần được đem vào trong chương trình BHXH như tai nạn công nghiệp, ốm đau, chết sớm do tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già, và những rủi ro khác tương tự như vậy. Ông ta đi đến kết luận là bằng những phương tiện của hành động hợp tác và sự tạo ra hệ thống BHXH, và chỉ duy nhất bằng những phương tiện này, chúng ta mới hy vọng thu thập được sự đóng góp từ thu nhập của người lao động, của người sử dụng lao động nhằm mục đích bảo đảm và nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống cho chúng ta. Ông ta đã chỉ ra điều hoàn toàn đúng, đó là lý do tại sao chúng ta đã bắt tay vào xây dựng hệ thống BHXH.

Các khái niệm về Bảo hiểm xã hội

Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm tiêu đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 (Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ9). Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ này được dùng trong Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic Charter of 1941).

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO10) nhanh chóng chấp nhận thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được nguyện vọng sâu sắc nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Thuật ngữ “bảo hiểm xã hội” được hiểu không giống nhau giữa các nước về mức độ phạm vi rộng hẹp của nó. Tuy nhiên, về cơ bản thì thuật ngữ này được hiểu với nghĩa là sự bảo đảm an toàn của xã hội dành cho thành viên của nó thông qua các quy trình của hệ thống công cộng, nhằm giải toả những lo âu về kinh tế và xã hội cho thành viên. Nói cách khác, nó góp phần giúp các thành viên trong xã hội và gia đình khắc phục sự suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập thực tế do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hư trí, và tử tuất; đồng thời cung cấp về dịch vụ y tế, trợ cấp gia đình có con nhỏ

Theo D. Pieters bảo hiểm xã hội được hiểu với tư cách là một tổ chức được hình thành với mục đích hỗ tương giữa người với người để đối phó với sự thiếu hụt thu nhập (chẳng hạn như thu nhập từ tiền công lao động), hoặc những tổn thất cụ thể khác.

Sinfield thì đề nghị BHXH nên được định nghĩa là một cơ chế bảo đảm an toàn toàn diện cho con người chống lại sự mất mát về vật chất. Quan điểm của Berghman cũng tương tự như thế, Berghman quan niệm rằng BHXH là một cơ chế bảo hộ toàn diện cho con người chống lại những tổn thất vật chất.

Theo Giancarlo Perone bảo hiểm xã hội là một hệ thống bao gồm những lợi ích và dịch vụ cung cấp cho công dân khi cần thiết, bất kể công dân đó làm công việc gì.

Dưới góc độ pháp lý, Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết.

Cần phân biệt bảo hiểm xã hội với một số khái niệm có nội dung gần với nó như: bảo hiểm thương mại, an sinh xã hội, cứu tế xã hội v.v. . . .Khái niệm an sinh xã hội có phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm xã hội, những chế định cơ bản của hệ thống an toàn xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, trợ cấp gia đình, trợ cấp do các quỹ công cộng tài trợ, quỹ dự phòng và sự bảo vệ được giới chủ và các tổ chức xã hội cung cấp. Còn bảo hiểm thương mại chủ yếu mang tính chất tự nguyện, quan hệ bảo hiểm xuất hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm, phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm nhà nước rộng hơn so với bảo hiểm xã hội ( gồm mọi cá nhân, tổ chức), mức hưởng bảo hiểm được đề xuất trên cơ sở mức tham gia bảo hiểm và hậu quả xảy ra.

Mục đích của Bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội có mục tiêu rộng hơn sự phòng ngừa hay trợ giúp vật chất trong những trường hợp cần thiết, mà nó còn là sự đáp ứng những nhu cầu, những mong ước của loài người muốn được bảo đảm an toàn trong cuộc sống theo nghĩa rộng nhất.

Mục đích chủ yếu của BHXH là tạo cho mọi cá nhân và gia đình họ một niềm tin vững chức rằng mức sống và điều kiện sống của họ, trong một chừng mực có thể, không bị suy giảm đáng kể bởi bất kỳ hậu quả kinh tế hay xã hội nào.

BHXH không chỉ bao gồm việc đáp ứng những nhu cầu phát sinh khi lâm vào tình trạng khó khăn túng thiếu, mà trước hết nó nhằm phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra, đồng thời giúp đỡ cho cá nhân và gia đình có được sự tự điều chỉnh tốt nhất có thể được khi họ đối mặt với sự đau ốm, tàn tật và những hoàn cảnh khó khăn khác không thể ngăn ngừa được. Vì vậy, BHXH yêu cầu không chỉ tiền mặt, mà còn là những dịch vụ xã hội, dịch vụ y tế với một phạm vi rộng lớn.

BHXH hoạt động và phát triển bởi vì nó phản ánh được nhu cầu của toàn thể nhân loại. Mọi ngưòi trong mọi thời đại lịch sử không ngoại trừ ai đều đối mặt với những điều không may xảy đến trong cuộc sống như tình trạng thất nghiệp, ốm đau, tai nạn lao động, sự tàn tật, cái chết và tuổi già. Bởi vậy, BHXH là một chương trình bản mẫu thiết kế nhằm khắc phục và hạn chế những điều không may mắn đó.

Khoản 1 Điều 140 Bộ luật Lao động nước ta (đã được sửa đổi, bổ sung11)đã nêu rõ “Nhà nước quy định chính sách bảo hiểm xã hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác”.

Lược sử ra đời chương trình Bảo hiểm xã hội

Chương trình BHXH bắt buộc ở cấp quốc gia đầu tiên được thiết lập ở nước Đức dưới thời thủ tướng Otto von Bismarck. Cụ thể chương trình bảo hiểm y tế thiết lập năm 1883, chương trình về tiền bồi thường cho công nhân năm 1884, chương trình trợ cấp hưu trí và trợ cấp tàn tật năm 1889. Mẫu hình này của Đức ngay sau đó được Áo và Hungary áp dụng.

Thời bấy giờ, ở vài nước Châu Âu đã diễn ra nhiều cuộc thảo luận, tranh cãi về chương trình này. Người thì cho rằng BHXH không nên bắt buộc mà chỉ nên là loại hình tự nguyện và được bao cấp, ý kiến khác thì ủng hộ một hệ thống bảo hiểm bắt buộc.

Anh quốc chấp thuận chương trình bảo hiểm y tế bắt buộc trên toàn quốc vào năm 1911, tuy nhiên mãi đến năm 1948 thì chương trình này mới được triển khai thực hiện một cách mạnh mẽ.

Sau năm 1920, chương trình BHXH bắt buộc nhanh chóng được chấp nhận ở hầu hết các nước Châu Âu và Tây Bán Cầu. Trong việc sáng tạo ra chương trình BHXH thì Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tụt tại phía sau so với Châu Âu, mãi đến năm 1935 Hoa Kỳ mới thông qua được Luật Bảo hiểm xã hội (có người gọi là Luật phúc lợi xã hội). Đặc biệt là giai đoạn từ sau thế chiến thứ hai đến nay, hệ thống BHXH bắt buộc với nhiều chương trình thiết thực được Chính phủ nhiều nước quan tâm, vì thế hệ thống BHXH đã phát triển mạnh mẽ và trải rộng khắp thế giới đáp ứng được phần lớn nhu cầu của nhân dân.

Những đặc trưng của bảo hiểm xã hội

Hệ thống bảo hiểm xã hội ở các nước khác nhau có nhiều điểm khác biệt nhau, tuy vậy đều có những nét chung sau :

  • Tài chính của bảo hiểm xã hội là do sự đóng góp của hai bên: người lao động và người sử dụng lao động, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
  • Về nguyên tắc việc tham gia bảo hiểm xã hội là bắt buộc trừ một số ngoại lệ.
  • Số tiền được các bên đóng góp được tập hợp thành một loại quỹ riêng dùng để chi trả trợ cấp nhưng chỉ chi đối với những trường hợp cần bảo hiểm xã hội. số tiền nhàn rỗi được đầu tư để làm tăng thêm nguồn quỹ.

Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội

Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội

Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở việc Nhà nước trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội thông qua việc ban hành pháp luật quy định các chế độ bảo hiểm xã hội, và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó.

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn, nó ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do vậy, Nhà nước luôn dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn mà quy định chính sách quốc gia về bảo hiểm xã hội cho phù hợp với thực tiễn của đất nước. Bên cạnh việc quy định chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương, Nhà nước khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.

Việc Nhà nước thống nhất tổ chức và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội không phải là loại bỏ sự tham gia của quần chúng lao động. với tư cách là người đại diện cho tập thể những người lao động, công đoàn trung ương được quyền tham gia với chính phủ trong các vấn đề : xây dựng điều lệ, thành lập hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội, ban hành quy chế về tổ chức, hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội. Các công đoàn địa phương và cơ sở tham gia cùng với các cấp chính quyền và người sử dụng lao động trong việc thực hiện và giám sát việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội.

Thực hiện bảo hiểm xã hội dựa trên cơ sở phân phối theo lao động, lấy số đông bù số ít

Bảo hiểm xã hội là một trong các hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc dân nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải phải dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động. Có nghĩa là mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp... sẽ căn cứ vào thời gian đóng góp bảo hiểm xã hội dài hay ngắn, mức tiền lương cao hay thấp, việc mất sức lao động nhiều hay ít. Tuy nhiên, vì là một trong những lĩnh vực thuộc bảo đảm xã hội, nên bên cạnh nguyên tắc phân phối theo lao động còn phải thực hiện nguyên tắc tương trợ, lấy số đông bù số ít. Có như vậy mới đạt được ý nghĩa xã hội và nhân văn của bảo hiểm xã hội.

Thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi trường hợp giảm hoặc mất khả năng lao động và cho mọi người lao động

Nguyên tắc này đảm bảo cho người lao động dù làm việc trong thành phần kinh tế nào khi hội đủ những điều kiện, dấu hiệu phát sinh quan hệ bảo hiểm xã hội thì đều được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội không phân biệt giới tính, tuổi tác v.v. . . . Mặt khác, nó thể hiện được ý nghĩa xã hội của bảo hiểm xã hội là bảo hiểm xã hội áp dụng rộng rãi cho mọi người lao động mà không có sự phân biệt nào. Tuy nhiên, việc quy định số lượng các chế độ bảo hiểm xã hội nhiều hay ít còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước .

Bảo đảm tính ổn định và liên lục của quan hệ bảo hiểm xã hội

Trong cơ chế thị trường, Người lao động có thể làm việc cho một hoặc nhiều người sử dụng lao động khác nhau. Do đó, sự biến động của quan hệ lao động là điều không thể tránh khỏi. Tuy vậy, phải bảo đảm tính thống nhất và liên tục về thời gian của cả hệ thống bảo hiểm xã hội. nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến phá vỡ quan hệ trong bảo hiểm xã hội. Chính sách bảo hiểm xã hội là thống nhất, song phải đảm bảo một mặt người lao động được di chuyển lao động dễ dàng, mặt khác lại khuyến khích được sự ổn định đội ngũ lao động.

Các bên trong quan hệ bảo hiểm xã hội

Các bên trong quan hệ bảo hiểm xã hội hội (còn gọi là thành viên tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội) bao gồm: người thực hiện bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm.

  • Người thực hiện bảo hiểm

    Người thực hiện bảo hiểm là người đại diện cho cơ quan bảo hiểm xã hội do Nhà nước thành lập. Hệ thống cơ quan bảo hiểm xã hội được thành lập thống nhất từ trung ương đến địa phương. Hoạt động của cơ quan bảo hiểm xã hội được Nhà nước giám sát, kiểm tra chặt chẽ. Cơ quan bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động theo quy định của pháp luật, đồng thời chịu trách nhiệm về vật chất đối với người được bảo hiểm khi họ hội đủ điều kiện được hưởng bảo hiểm xã hội.

  • Người tham gia bảo hiểm xã hội

    Người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật là người sử dụng lao động, người lao động, và trong một chừng mực nào đó là Nhà nước. Người tham gia bảo hiểm xã hội có nghĩa vụ đóng góp phí bảo hiểm xã hội để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được bảo hiểm xã hội.

  • Người được bảo hiểm xã hội

    Người được bảo hiểm xã hội là người lao động hoặc thành viên gia đình họ khi hội đủ các điều kiện bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

    *Các bên trong quan hệ bảo hiểm xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Điều này thể hiện ở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên được đặt trong mối quan hệ thống nhất với nhau.

Đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội

Đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội chính là người lao động. Tuy vậy, việc áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội ở từng nước rất khác nhau. Có nước chỉ thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người làm công ăn lương. có nước lại áp dụng cho cả bộ máy công chức Nhà nước. Nhưng xu hướng chung là mở rộng dần đối tượng bảo hiểm xã hội đối với tất cả người lao động trong các khu vực kinh tế khác nhau.

Theo quy định của pháp luật lao động nước ta, chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng cho các đối tượng sau đây:

  1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sau:
    1. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước;
    2. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
    3. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
    4. Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
    5. Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.
    6. Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang;
    7. Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hóa, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác;
    8. Trạm y tế xã, phường, trị trấn;
    9. Cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
    10. Các tổ chức khác có sử dụng lao động.
  2. Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức.
  3. Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
  4. Người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.

    Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trên làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.

    Người lao động thuộc các đối tượng nêu trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc.

    Đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp đã thực hiện giao khoán đất có quy định riêng."

Các loại hình bảo hiểm xã hội

Ở nước ta có hai loại hình bảo hiểm xã hội là: bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc

Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

Với những doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 149 của Bộ luật lao động và người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất.

Loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện

Đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới ba tháng thì các khoản bảo hiểm xã hội được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả theo quy định của Chính phủ, để người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm.

Khi hết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới, thì áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Quỹ bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội

Nguồn tài chính hình thành quỹ bảo hiểm xã hội

Quỹ bảo hiểm xã hội là một loại quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích dần dần từ sự đóng góp của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội, được dùng để chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

Trong nền kinh tế hàng hóa, trách nhiệm tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội dựa trên mối quan hệ lao động. sự đóng góp được chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Việc tham gia bảo hiểm xã hội không phải là sự phân chia rủi ro như tham gia bảo hiểm thương mại mà là vấn đề lợi ích của cả hai phía. Đối với người sử dụng lao động thì việc đóng góp một phần bảo hiểm xã hội sẽ tránh được thiệt hại lớn về kinh tế khi xảy ra rủi ro đối với người lao động. Còn người lao động khi tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội cho mình là thực hiện nghĩa vụ trực tiếp trước những rủi ro xảy ra đối với bản thân.

Do vậy, thực chất của mối quan hệ giữa hai chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội là mối quan hệ về lợi ích.

Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau đây:

  • Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương;
  • Người lao động đóng bằng 5% tiền lương;
  • Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động;
  • Tiền sinh lời của quỹ;
  • Các nguồn khác.

Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội

Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ và công khai theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ.

Quỹ bảo hiểm xã hội còn được hiểu dưới nghĩa là một tổ chức, trong đó gồm các thành viên là các bên tham gia bảo hiểm xã hội lập ra để quản lý và điều hành việc thu nộp và chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội. Với nghĩa này, Quỹ có Hội đồng quản trị để quản lý quỹ bảo hiểm xã hội được thu nộp từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và của ngân sách Nhà nước (đóng góp và tài trợ).

Việc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội gồm hai mặt: quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội và quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội . Hai mặt quản lý này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng lại có tính chất khác nhau và do các cơ quan khác nhau đảm nhận.

  • Việc quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan của Chính phủ đảm nhận và có những nhiệm vụ, quyền hạn sau : xây dựng và trình ban hành pháp luật về bảo hiểm xã hội; ban hành các văn bản pháp qui về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm quyền; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo hiểm xã hội. Vụ bảo hiểm xã hội là vụ chức năng giúp Bộ Lao động - thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội.
  • Việc quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đơn vị sự nghiệp thuộc Chính phủ, quản lý và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội; thực hiện các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội.

    Bảo hiểm xã hội Việt Nam là một tổ chức có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn.

    Từ kinh nghiệm của các nước, Công ước số 102 năm 1952 đã yêu cầu trong trường hợp chính phủ của một nước tổ chức cơ quan bảo hiểm xã hội riêng, không thuộc một bộ ngành nào thì Hội đồng quản trị quỹ bảo hiểm xã hội trung ương nói chung bao gồm đại diện của những người lao động và của những người sử dụng lao động bên cạnh các quan chức của các cơ quan Nhà nước hữu quan. Đại diện người lao động và người sử dụng lao động có thể được bầu hoặc cử từ các tổ chức nghiệp đoàn (công đoàn và giới chủ), hoặc có thể Bộ trưởng phụ trách về bảo hiểm xã hội bổ nhiệm sau khi tham khảo ý kiến những người sử dụng lao động và công đoàn. Còn ở các địa phương, các cơ quan bảo hiểm xã hội (phòng) phụ trách các việc như : đăng ký những người đóng bảo hiểm xã hội và những người được bảo hiểm; thu phí bảo hiểm xã hội; chi trả bảo hiểm xã hội theo các chế độ quy định.

    Ở Việt Nam, ta không gọi quỹ bảo hiểm xã hội mà chỉ gọi là Bảo hiểm xã hội, tổ chức thành các cấp gồm: bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội cấp tỉnh, và bảo hiểm xã hội cấp huyện.

  • Cơ quan quản lý cao nhất của bảo hiểm xã hội là Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam, có nhiệm vu: chỉ đạo và giám sát, kiểm tra việc thu chi, quản lý quỹ; quyết định các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội; thẩm tra quyết toán và thông qua dự toán hằng năm; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung, sửa đổi các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội; giải quyết các khiếu nại của người tham gia bảo hiểm xã hội; đề xuất việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên Ban lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

    Thành viên của Hội đồng quản lý gồm đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động - thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Tổng giám đốc bảo hiểm xã hội Việt Nam. Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam có chủ tịch, một phó chủ tịch và các thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm.

    Bảo hiểm xã hội Việt Nam do Tổng giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành theo chế độ thủ trưởng, được tổ chức thành hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương như đã đề cập ở trên.

Quyền và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm xã hội

Quyền và trách nhiệm của người lao động

Quyền của người lao động:

  • Được nhận Sổ bảo hiểm xã hội;
  • Được nhận lương hưu hoặc trợ cấp kịp thời, đầy đủ, thuận tiện khi có đủ điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
  • Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động hoặc tổ chức bảo hiểm xã hội có hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;

Người lao động có trách nhiệm:

  • Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định;
  • Thực hiện đúng các quy định về lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội;
  • Bảo quản, sử dụng Sổ bảo hiểm xã hội và hồ sơ về bảo hiểm xã hội đúng quy định.

Quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao động

Quyền của người sử dụng lao động:

  • Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng với quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội;
  • Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan bảo hiểm xã hội có hành vi vi phạm Điều lệ bảo hiểm xã hội

Người sử dụng lao động có trách nhiệm:

  • Đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định;
  • Trích tiền lương của người lao động để đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định;
  • Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan khi có kiểm tra, thanh tra về bảo hiểm xã hội của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Quyền và trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội

Quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội:

  • Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định để quản lý việc thu, chi bảo hiểm xã hội và để xác nhận đối tượng hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội;
  • Tổ chức phương thức quản lý quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu quả;
  • Tuyên truyền, vận động để mọi người tham gia thực hiện bảo hiểm xã hội;
  • Từ chối việc chi trả chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu.

Cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm:

  • Tổ chức thu, quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội đúng quy định;
  • Thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đúng quy định của pháp luật;
  • Tổ chức việc trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội kịp thời, đầy đủ, thuận tiện;
  • Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về bảo hiểm xã hội;
  • Thông báo định kỳ hàng năm về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động.

Các chế độ bảo hiểm xã hội

Theo quy định của pháp luật lao động, hiện nay nước ta có các chế độ bảo hiểm như sau:

  • Chế độ trợ cấp ốm đau;
  • Chế độ trợ cấp thai sản;
  • Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
  • Chế độ hưu trí;
  • Chế độ tử tuất;
  • Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.

Chế độ trợ cấp ốm đau

Chế độ bảo hiểm ốm đau là nhằm để người lao động chữa trị bệnh tật và bù đắp một phần thu nhập mất đi do ốm đau phải nghỉ việc không có lương.

Những trường hợp được hưởng trợ cấp ốm đau

  • Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn rủi ro mà có xác nhận của tổ chức y tế do Bộ Y tế quy định thì được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau. Trường hợp người lao động nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hoặc dùng chất ma túy thì không được hưởng trợ cấp ốm đau.
  • Người lao động có con thứ nhất, thứ hai kể cả con nuôi theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình) dưới 7 tuổi bị ốm đau, nếu có yêu cầu của tổ chức y tế phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau thì cũng được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
  • Người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa dân số như: đặt vòng, nạo hút thai, thắt ống dẫn tinh . . . thì cũng được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.

Thời gian tối đa được hưởng và mức hưởng trợ cấp ốm đau

  • Thời gian tối đa người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau được pháp luật lao động quy định như sau:
    1. 30 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm;
    2. 40 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 15 năm đến dưới 30 năm
    3. 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 30 năm trở lên.

    Riêng đối với người lao động làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại (danh mục nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành),, làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì thời gian tối đa người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau được pháp luật quy định như sau:

    1. 40 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm;
    2. 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 15 năm đến dưới 30 năm;
    3. 60 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 30 năm trở lên.

    Mức trợ cấp là 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của tháng trước khi nghỉ việc.

    Người lao động bị mắc bệnh cần điều trị dài ngày theo danh mục do Bộ Y tế ban hành thì thì thời gian được hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày trong một năm, không phân biệt thời gian đóng bảo hiểm xã hội nhiều hay ít. Trường hợp này, mức trợ cấp là 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc

    Trường hợp nếu hết hạn 180 ngày mà còn phải tiếp tục điều trị, thì thời gian điều trị thêm được hưởng trợ cấp bằng 70% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 30 năm trở lên; và được hưởng trợ cấp bằng 65% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 30 năm.

    Danh mục các bệnh cần nghỉ việc để chữa bệnh dài ngày

    (Theo quy định tại Thông tư số 33/TT-LB ngày 25/6/1987 của Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam)

    1. Bệnh lao các loại;
    2. Bệnh tâm thần;
    3. Bệnh sang chấn hệ thần kinh, động kinh;
    4. Suy tim mãn, tâm phế mạn;
    5. Bệnh phong (cùi);
    6. Thấp khớp mãn có biến chứng phần xương cơ khớp;
    7. Ung thư các loại ở tất cả các phủ tạng;
    8. Các bệnh về nội tiết;
    9. Di chứng do tai biến mạch máu não;
    10. Di chứng do vết thương chiến tranh;
    11. Di chứng do phẫu thuật và tai biến điều trị;
    12. Suy nhược cơ thể do bị tra tấn tù đày trong hoạt động cách mạng;
  • Người lao động có con thứ nhất, thứ hai(kể cả con nuôi theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình) dưới 7 tuổi bị ốm đau, nếu có yêu cầu của tổ chức y tế phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau thì cũng được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội với mức trợ cấp là 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc. Trường hợp này, pháp luật lao động quy định thời gian tối đa được hưởng trợ cấp như sau:
    1. 20 ngày trong 1 năm, đối với con dưới 3 tuổi;
    2. 15 ngày trong 1 năm, đối với con từ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi.
  • Người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa dân số như: đặt vòng, nạo hút thai, thắt ống dẫn tinh . . . thì cũng được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội với mức trợ cấp là 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc (thời gian nghỉ việc trong trường hợp này do Bộ Y tế quy định).

Chế độ trợ cấp thai sản

Việc thực hiện thiên chức sinh đẻ và nuôi dạy con cái đã khiến cho phụ nữ có những đặc điểm tâm sinh lý riêng. Vì vậy, pháp luật lao động đã có những quy định riêng đối với lao động nữ. Chế độ trợ cấp thai sản đối với lao động nữ trong bảo hiểm xã hội cũng nhằm thực hiện mục đích ấy.

Những trường hợp được hưởng trợ cấp thai sản

  • Thời gian nghỉ sinh con đối với lao động nữ (không kể sinh con thứ mấy );
  • Thời gian nghỉ để đi khám thai;
  • Thời gian nghỉ việc do bị sẩy thai;
  • Thời gian nghỉ nuôi con nuôi (1 con nuôi) dưới 4 tháng tuổi kể cả lao động nữ và lao động nam.

Thời gian được hưởng và mức hưởng trợ cấp thai sản

  • Thời gian nghỉ việc trước và sau khi sinh con được pháp luật lao động quy định như sau:
    • 4 tháng đối với người làm việc trong điều kiện bình thường;
    • 5 tháng đối với người làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại; làm việc theo chế độ 3 ca; làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,5 và 0,7;
    • tháng đối với người làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 1,0; người làm nghề hoặc công việc đặc biệt theo danh mục do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành.

    Nếu sinh đôi trở lên, thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày.

    Trong trường hợp khi sinh con, nếu con dưới 60 ngày tuổi bị chết (kể cả trường hợp đẻ thai chết lưu) thì người mẹ được nghỉ việc 75 ngày tính từ ngày sinh; nếu con từ 60 ngày tuổi trở lên bị chết thì được nghỉ việc 15 ngày tính từ khi con chết, nhưng không vượt quá thời gian nghỉ việc trước và sau khi sinh con như đã trình bày ở phần trên.

    Trường hợp hết thời hạn nghỉ việc sinh con như đã trình bày ở trên, nếu có nhu cầu thì sản phụ có thể nghỉ thêm với điều kiện được người sử dụng lao động chấp thuận nhưng không được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.

    Lao động nữ có thể đi làm việc trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu đã nghỉ 60 ngày trở lên tính từ khi sinh con và phải có chứng nhận của thầy thuốc về việc trở lại làm việc sớm không có hại cho sức khoẻ và phải báo cho người sử dụng lao động biết trước 1 tuần lễ. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương, lao động nữ vẫn được hưởng trợ cấp thai sản đến hết thời gian nghỉ theo quy định.

    • Trong thời gian có thai được nghỉ việc để đi khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày (trường hợp người lao động có thai làm việc ở xa tổ chức y tế, hoặc người mang thai có bệnh lý, thai không bình thường thì được nghỉ việc 2 ngày cho mỗi lần khám thai).
    • Trường hợp sẩy thai thì được nghỉ việc 20 ngày nếu thai dưới 3 tháng; 30 ngày nếu thai từ 3 tháng trở lên.
    • Người lao động (không phân biệt nam hay nữ) nếu nuôi con nuôi sơ sinh theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình nghỉ việc thì được hưởng trợ cấp cho đến khi nuôi con đủ 4 tháng tuổi.
  • Mức trợ cấp thai sản trong thời gian nghỉ thuộc các trường hợp nêu trên bằng 100% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng trước khi nghỉ. Ngoài ra, khi sinh con được trợ cấp 1 lần bằng 1 tháng tiền lương đóng bảo hiểm xã hội.

Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Chế độ trợ cấp tai nạn lao động

  • Người lao động bị tai nạn trong các trường hợp sau đây được hưởng trợ cấp tai nạn:
    • Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả làm việc ngoài giờ do yêu cầu của người sử dụng lao động;
    • Bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động;
    • Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc.
  • Mức trợ cấp tai nạn lao động

    Người bị tai nạn lao động được hưởng trợ cấp tùy thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động và được tính trên mức tiền lương tối thiểu chung do Chính phủ công bố

    Mức trợ cấp được quy định như sau:

    • Bị suy giảm từ 5% đến 30% khả năng lao động được trợ cấp 1 lần theo quy định dưới đây:

    • Bị suy giảm từ 31% khả năng lao động trở lên, được hưởng trợ cấp hàng tháng kể từ ngày ra viện theo quy định dưới đây:

      Người lao động bị tai nạn lao động suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống, mù hai mắt, cụt hai chi, tâm thần nặng, hàng tháng được phụ cấp phục vụ bằng 80% mức tiền lương tối thiểu.

      Người lao động bị tai nạn lao động làm tổn thương các chức năng lao động của chân, tay, tai, mắt, răng, cột sống... được trang cấp phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thất chức năng theo niên hạn.

      Người lao dộng chết khi bị tai nạn lao động (kể cả chết trong thời gian điều trị lần đầu) thì gia đình được trợ cấp 1 lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu và được hưởng chế độ tử tuất sẽ được trình bày ở phần sau.

      Người hưởng trợ cấp tai nạn lao dộng 1 lần hoặc hàng tháng, nếu đủ điều kiện, được hưởng chế độ hưu trí sẽ được trình bày ở phần sau.

Chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp

  • Danh mục bệnh nghề nghiệp được trợ cấp

    Danh mục bệnh nghề nghiệp được trợ cấp bảo hiểm xã hội vui lòng xem bài 9, mục V.

  • Mức trợ cấp bệnh nghề nghiệp

    Người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp theo danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành thì được hưởng chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp giống như chế độ đối với người bị tai nạn lao động.

Chế độ hưu trí

Căn cứ vào hai điều kiện: : tuổi đời và tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà người lao động đóng bảo hiểm xã hội được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng (lương hưu) hay được trợ cấp một lần.

Chế độ hưu trí hàng tháng (lương hưu)

  • Điều kiện để được hưởng lương hưu

    Người lao động khi nghỉ việc mà có một trong các điều kiện dưới đây thì được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng:

    • Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên.
    • Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc một trong các trường hợp sau đây:
      1. Đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại.
      2. Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên.
      3. Đủ 10 năm công tác ở miền Nam, ở Lào trước ngày 30/4/1975, hoặc ở Campuchia trước ngày 31/8/1989.

    Người lao động cũng được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn khi có một trong các điều kiện sau đây:

    • Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm đến dưới 20 năm.
    • Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
    • Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại và đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời).
  • Tính % mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội được hưởng

    Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm thì được tính bằng 45% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 3% đối với lao động nữ và 2% đối với lao động nam.

    Mức lương hưu hàng tháng tối đa bằng 75% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.

    Đối với người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn thì cách tính lương hưu cũng như trên, nhưng cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi thì giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.

    Riêng đối với người lao động nam đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi, nữ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 30 năm trở lên, có nguyện vọng về hưu thì được hưởng lương hưu như cách tính nêu trên, nhưng mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi không phải giảm 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.

    Ngoài lương hưu hàng tháng, lao động nữ có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên 25 năm, lao động nam có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên 30 năm, khi nghỉ hưu được trợ cấp một lần theo cách tính như sau: từ năm thứ 26 trở lên đối với lao động nữ, từ năm thứ 31 trở lên đối với lao động nam, mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được nhận bằng một nửa (1/2) tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, nhưng tối đa không qúa 5 tháng.

  • Tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội

    Có 3 cách tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội áp dụng đối với 3 loại đối tượng lao động khác nhau, cụ thể:

    • Cách 1 Người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo các mức tiền lương tháng trong các hệ thống thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định thì tính bình quân gia quyền các mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trong 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
    • Cách 2 Người vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo tiền lương trong các hệ thống thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội không theo các mức lương trong các hệ thống thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định thì tính bình quân gia quyền các mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội chung của các thời gian.
    • Cách 3 Người lao động đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên theo các mức tiền lương thuộc công việc nặng nhọc, độc hại hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại trong thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định mà chuyển sang làm công việc khác đóng bảo hiểm xã hội có mức lương thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy các mức lương cấp bậc của 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại để tính mức bình quân tiền lương làm cơ sở tính hưởng lương hưu.

Chế độ trợ cấp một lần

Những trường hợp sau đây được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính bằng 1 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội:

  • Người lao động nghỉ việc đã đủ tuổi nghỉ hưu hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên do ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, nhưng chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng;
  • Người lao động đi định cư hợp pháp ở nước ngoài.

Chế độ tử tuất

Nội dung của chế độ này bao gồm: chế độ mai táng và chế độ trợ cấp tiền tuất (chế độ tiền tuất hàng tháng hoặc tiền tuất một lần).

Mai táng phí

Người lao động đang làm việc; người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí; người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng khi chết thì người lo mai táng được nhận tiền mai táng bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu.

Tiền tuất

  • Tuất hàng tháng

    Người lao động đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên; người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí hàng tháng; người đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng và người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp bị chết thì những thân nhân do họ trực tiếp nuôi dưỡng sau đây được hưởng tiền tuất hàng tháng:

    • Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật công nhận, con đẻ mà khi người chồng chết người vợ đang mang thai). Nếu con còn đi học thì được hưởng tiền tuất hàng tháng đến khi đủ 18 tuổi.
    • Bố, mẹ (cả bên vợ và bên chồng); vợ hoặc chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi trở lên, nữ đủ 55 tuổi trở lên).

    Mức tiền tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân nêu trên bằng 40% mức tiền lương tối thiểu. Trong trường hợp thân nhân không có nguồn thu nhập nào khác và không còn người thân trực tiếp nuôi dưỡng thì mức tiền tuất hàng tháng bằng 70% mức tiền lương tối thiểu.

    Số thân nhân được hưởng tiền tuất hàng tháng không quá 4 người và được hưởng kể từ ngày người lao động chết. Trường hợp đặc biệt do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét giải quyết.

  • Tuất một lần

    Người lao động đang làm việc; người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí; người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng và người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp chết mà không có thân nhân thuộc diện hưởng tiền tuất hàng tháng thì gia đình được nhận tiền tuất 1 lần.

    Mức tiền tuất 1 lần đối với gia đình người lao động đang làm việc hoặc người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí chết, tính theo thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1/2 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội nhưng tối đa không quá 12 tháng.

    Mức tiền tuất 1 lần đối với gia đình người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng chết thì tính theo thời gian đã hưởng lương hưu hoặc trợ cấp, nếu chết trong năm thứ nhất tình tính bằng 12 tháng lương hưu hoặc trợ cấp đang hưởng, nếu chết từ năm thứ 2 trở đi thì mỗi năm giảm đi 1 tháng, nhưng tối thiểu bằng 3 tháng lương hưu hoặc trợ cấp.

9 Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hoa Kỳ (the Social Security Act of 1935) chỉ bao gồm bốn chế độ bảo hiểm là chế độ hưu trí, tử tuất, mất khả năng lao động, và thất nghiệp.

10 Viết tắt của International Labour Organization.

11 Ngày 02/4/2002 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Lao động, và Luật sửa đổi, bổ sung này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2003.