Các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay

Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định và Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước ,tương ứng với nó là nhiều hình thức phân phối nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu , đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.

Trong nền kinh tế này xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế khác nhau với các hình thức sở hữu khác nhau và cũng vì lẽ đó mà xuất hiện nhiều phương thức phân phối khác nhau.Mỗi thành phần kinh tế có phương thức sản xuất –kinh doanh khác nhau nên kết quả kinh doanh khác nhaudo đó cần các hình thức phân phối khác nhau

Vì vậy ở nước ta hiện nay không thể tồn tại một hình thức phân phối duy nhất

Phân phối theo lao động

Trong thời kỳ quá độ hiện nay ,hình thức phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản , là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước)hoặc các hợp tác xã cổ phần mà góp vốn của các thànhviên bằng nhau (kinh tế hơp tác )

Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Do đó dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ.Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất nên tất yếu cũng làm chủ phân phối theo thu nhập . Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì vậy mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta.

Trước đây nước ta đã thực hiện sự phân phối bình quân là phân phối cho mỗi người một lượng sản phẩm như nhau, không phân biệt mức đóng góp của từng người vào sản xuất xã hội. Phân phối bình quân đã gây ra sự bất hợp lý và tiêu cực trong xã hội.Trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay thì phân phối theo lao động là hình thức thức căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này tất cả mọi người dều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc láy lao động làm thước đo. Đối với các thành phần kinh tế thì việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu. Bởi nhiều nguyên nhân:

Nhờ dựa trên chế độ công hữu mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người.Chính vì vậy mà phân phối theo lao động và phù hợp với các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta hiện nay.

Lý do thứ hai khiến phân phối theo lao động là cần thiết là: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, chưa có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Tiếp đó là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động .... Dẫn đến mỗi người có cống hiến khác nhau đến kết quả lao động do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội để phân phối.

Thêm một nguyên nhân nữa cho thấy sự cần thiết phải phân phối theo lao động là lao động chưa trở thành nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, còn là ‘’nghĩa vụ,, và quyền lợi của mỗi công dân. Hơn nữa còn những tàn dư về tư tưởng của xã hội cũ như thái độ ‘’muốn trút bỏ gánh nặng cho người khác, làm ít hưởng nhiều ,, . Do đó cần phải có hình thức phân phối để các thành viên trong xã hội dựa vào đó là cơ sở, động lực trong các hoạt động của mình.

Như vậy việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu và phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động là phải lấy kết quả lao động làm thước đo để phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân. Lấy số lượng lao động và chất lượng lao động của mỗi người làm căn cứ trả công. Tuy nhiên nguyên tắc này phải gắn liền với yêu cầu đảm bảo công ăn việc làm cho những người có năng lực lao động, và tất yếu không thể nằm ngoài yêu cầu đảm bảo những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất tinh thần của người lao động.

Trong quá trình phân phối theo lao động cần chống hai sai lầm cơ bản khi thực hiện, đó là chủ nghĩa bình quân tiểu tư sản trong việc trả công lao động, vì nó gạt bỏ hoàn toàn nuyên tắc lợi ích vật chất, kìm hãm động lực lao động của người lao động. Thứ hai là khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc lương, thang lương một cách không có căn cứ kinh tế và những đòi hỏi có sự ưu đãi đặc biệt đối với một số người.

Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với xã hội và bản thân người lao động. Bởi lẽ nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của sản xuất xã hội với lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích người lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn làm cho đội ngũ lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Điều đó còn thúc đẩy người lao động ra sức học tập văn hoá kỹ thuật, góp phần làm cho sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động bằng chân tay bị xoá bỏ dần. Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động được ổn định trong cả nước đảm cho sản xuất xã hội cân bằng và có kế hoạch. Thêm vào đó nó góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình , từ đó ra sức mà đẩy mạnh sản xuất.

Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu ‘’làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu,, thì còn nhiều việc phải làm. Bởi theo Mac phân phối theo lao động vẫn là một thứ pháp quyền tư sản, quyền bình đẳng vẫn nằm trong khuôn khổ tư sản, tức là trong xã hội sản xuất hàng hoá được thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá và quyền của người lao động tỷ lệ với lao động người ấy cung cấp thì điều đó vẫn còn thiếu xót. Bởi vởi với một công việc ngang nhau một phần tham dự như vào quỹ tiêu dùng xã hội nhưng trên thực tế người này vẫn được hưởng nhiều hơn người kia.

Chế độ phân phối theo lao động vẫn còn những thiếu xót nhưng đó là những thiếu xót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa công sản. Nếu như trong xã hội tư bản phân phối dựa trên cơ sở ‘’người có của, kẻ có công,, thì trong xã hội XHCN được dựa trên nguyên tắc ‘’ người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, không làm kong hưởng,, đó là bình đẳng. Mặc dù còn tồn tại thiếu xót nhưng với tác dụng của mình thì phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối phù hợp nhất trong điều kiện vừa thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá vừa đảm bảo công bằng cho các thành viên trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.

Vì vậy việc thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là tất yếu vì:

Thứ nhất ở nước ta trong điều kiện hiện nay lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Tiếp đó là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động... dẫn đến mỗi người có cống hiến khác nhau do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội để phân phối.

Thứ hai hiện tại nước ta vẫn còn sự khác biệt giữa các loại lao động như lao động trí óc , lao động chân tay ,lao động giản đơn ,lao động chân tay ….Do vậy cùng một đơn vị thời gian ,những lao động khác nhau đưa lại kết quả ít nhiều , tốt xấu khác nhau.Do đó cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối . Mặt khác trong xã hội nước ta hiện nay vẫn còn những người “ muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác”, do đó trong tình hình nước ta hiện nay thì phân phối theo lao động là phù hợp với tình hình xã hội kể trên

Thứ ba trong điều kiện nước ta hiện nay , nền kinh tế phát triển chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu .Trong điều kiện lượng sản phẩm còn có hạn , để phân phối công bằng cần phải dựa vào kết quả lao động của từng người .Hơn nữa lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống , nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi , còn những tàn dư ý thức , tư tưởng cảu xã hội cũ để lại ,như : coi khinh lao động , ngại lao động chân tay, chây lười ,thích làm ít hưởng nhiều , so bì giữa cống hiến và hưởng thụ ….

Trong điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm , người giiỏi , giáo dục kẻ lười người xấu , gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ .Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tư tưởng tàn dư của xã hội cũ , không chỉ trong thời kỳ quá độ mà cả trong khi chủ nghĩa xã hội đã được xác lập phân phối vẫn là hình thức phân phối chủ yếu

Tóm lại phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với mô hình sản xuất và trình độ phát triển của đất nước. Nó có những cơ sở cụ thể để phân phối một cách hợp lí như :trình độ, số lượng lao đọng, môi trường lao động, tính chất của lao động ,tiền công, tiền thưởng ….Trong mỗi hoàn cảnh kinh tế, điều kiện làm việc khác nhau mà nẩy sinh các hình thức thúc đẩy nhân công làm việc khác nhau như :tác động đến vật chất, đến văn hoá….Tuy nhiên , phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế khong thể tránh khỏi trong giai đoạn đàu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhânthì khi đó con người mới có thể thưc hiện việc phân phói theo nhu cầu và xã hội khi đó mới thực sự bình đẳng.

Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác.

Bên cạnh việc thực hiện phân phối theo lao động thì nước ta còn sử dụng hình thức phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế nước ta trong bước quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội . Với cơ cấu nhiều thành phần ,nên tất yếu co nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau

Một đặc điểm rõ nét của nước ta trong quá độ định hướng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn phân tán vốn. Quá trình sản xuất, tích tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn vốn sản xuất hiện nay còn nằm rải rác ,phân tán trong tay người tư hữu nhỏ ,tư sản nhỏ ,trong đó có cả dưới dang jtư liệu sản xuất , vàng bạc ngoại hối và tiền mặt vv…. Để sử dụng nguồn vốn đó cho sản xuất thì không thể sử dụng cá chính sách ắp đặt như trưng thu, trưng mua hoặc đóng góp cổ phần một cách bình quân. Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) thì ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp cổ phần không hạn chế, với mức lãi suất hợp lý. Cách làm như vậy có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Như vậy mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội. Xét tình hình đất nước ta thì cần phải tạo điều kiện pháp lý cho các thành phần kinh tế tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên trong xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn và sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó thực hiện phân phối kết quả sản xuất kinh doanh theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dươí hình thức “lợi tức”và “lợi nhuận” và được coi là hình thức phân phối hợp pháp và được sự bảo hộ của pháp luật. Do sự liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nên đã xuất hiện các công ty liên doanh, các xí nghiệp cổ phần. Ở các loại xí nghiệp này, việc phân phối dựa trên cơ sở vốn cổ phần, dưới hình thức lợi tức cổ phần. Phân phối thu nhập dưới hình thức lợi tức tiền gửi của các cá nhân hoặc tập thể vào ngân hàng.

Phân phối thông qua phúc lợi tập thể , phúc lợi xã hội

Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay ở nước ta , vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay , nhưng ngoài những người khoẻ mạnh có khả năng lao động và đang lao động, được trả công theo lao động, những có vốn và tài sản đóng góp vào qúa trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này được gia đình đảm bảo. Mặt khác, ngay cả mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không chỉ dựa vào tiền công cá nhân. Bởi mức tiền công theo qui định của Nhà nước chưa đảm bảo được mức sống. Họ phải dựa một phần vào các quĩ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác.

Vì vậy mà ngoài việc phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì trong xã hội còn tồn tại hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua quĩ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không phải là phân phối là phân phối theo lao động mà đây mới chỉ là phân phối của thời kỳ quá độ mà thôi. Đây là hình thức phân phối bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thù lao lao động tính theo đầu người tương đối thấp. Nó không những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. Đây là hình thức phân phối của thời kỳ quá độ, nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của một đất nước.

Cả ba hình thức phân phối trên đều là những hình thức phân phối cơ bản ở nước ta hiện nay trong đó phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.Phân phối ngoài thù lao lao động qua các quĩ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp qui luật.