Dự án đầu tư
Khái niệm
Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật, hậu quả và hiệu quả tài chính, kinh tế - xó hội của hoạt động đầu tư đũi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án đầu tư. Có nghĩa là mọi công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thỡ mới đạt hiệu quả mong muốn.
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hỡnh thức, dự ỏn đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trỡnh bày một cỏch chi tiết và cú hệ thống cấc hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xó hội trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cụ đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xó hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế núi chung.
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đó định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định.
Phân loại dự án đầu tư.
Theo cơ cấu tái sản xuất.
Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng có vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Cũn đầu tư theo chiều sâu đũi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu và độ mạo hiểm ít hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
Theo lĩnh vực hoạt động trong xó hội của dự ỏn đầu tư
Có thể chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ( kỹ thật và xó hội )...Hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đến lượt mỡnh cỏc dự ỏn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác.
Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trỡnh tỏi sản xuất xó hội
Có thể phân loại các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất :
- Dự án đầu tư thương mại là loại dự án có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán với độ chính xác cao.
- Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án có thời gian hoạt động dài hạn ( 5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn ) vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết cũng như dự đoán chính xác ( về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật...).
Trên thực tế người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên trên giác độ xó hội hoạt động của loại đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án đầu tư thương mại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xó hội. Do đó, trên giác độ điều tiết kinh tế vĩ mô, nhà nước cần thông qua các cơ chế chính sách của mỡnh nhằm hướng dẫn, khuyến khích các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà cũn đầu tư cả vào lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục tiêu đó dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xó hội của đất nước.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn
Ta có thể chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn (các dự án đầu tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng...).
Theo phân cấp quản lý
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành theo nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/08/1999 của Thủ tướng Chính phủ phân chia các dự án thành 3 nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do thủ tướng Chính phủ quyết định; nhóm B và C do Bộ trưởng, thủ trưởng có quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh và thành phố trực thuộc TW quyết định.
Theo nguồn vốn
Dựa vào nguồn vốn, dự án đầu tư được phân chia thành :
- Dự án đầu tư có vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, từ tiền tiết kiệm của dân cư...).
- Dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, viện trợ, đầu tư gián tiếp...).
Việc phõn loại này cho thấy tỡnh hỡnh huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trũ của mỗi nguồn đối với sự phát triển kinh tế - xó hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế.
Theo vựng lãnh thổ (theo tỉnh, theo vựng kinh tế)
Cỏch phõn loại này cho thấy tỡnh hỡnh đầu tư của từng vùng kinh tế, từng tỉnh và ảnh hưởng của đầu tư đối với tỡnh hỡnh phỏt triển kinh tế xó hội ở từng địa phương.
Ngoài ra, trong thực tế để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiờn cứu kinh tế, người ta cũn phõn chia dự ỏn đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mụ và nhiều tiờu thức khỏc.
Cho vay dự án đầu tư
Cho vay dự án đầu tư là một dạng cho vay trung và dài hạn chủ yếu nhất của các ngân hàng thương mại. Đó là việc các ngân hàng thương mại hỗ trợ các khách hàng có đủ nguồn lực tài chính thực hiện các dự định đầu tư mà thời gian thu hôi vốn đầu tư vượt quá 12 tháng.
Dự án đầu tư xin vay
Dự án đầu tư của khách hàng là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các dự án đầu tư của nền kinh tế quốc dân. Quy mô của chúng có thể lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào mục tiêu đầu tư của chúng. Tuy nhiên, mỗi dự án đầu tư của khách hàng phải là một công trỡnh nghiờn cứu khoa học cú mục tiờu cụ thể và cú tớnh khả thi cao, đưa ra được những luận chứng kinh tế - kỹ thuật xác đáng, nêu lên một cách cụ thể lượng vốn đầu tư cần có, các nguồn tài chính bù đắp thích hợp, đề xuất được những giải pháp thực hiện dự án tối ưu.
Dự án đầu tư xin vay của các ngân hàng thương mại ngoài những tố chất chung trên đây cũn cần thờm đặc trưng sinh lời phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xó hội và phỏp luật của Nhà nước.
Quy trình cho vay dự án đầu tư
Giống như cho vay ngắn hạn, chu kỳ cho vay dự án đầu tư đối với các khách hàng được bắt đầu bằng việc xem xét và quyết định cho vay, sau đó là giả ngân vốn, theo dõi nợ vay và kết thúc bằng việc thu nợ gốc và lãi. Chu kỳ cho vay dự án đầu tư cũng có thể diễn đạt bằng sơ đồ:( T-T’).
Dựa trên đề xuất vay dự án đầu tư của khách hàng vay, ngân hàng thương mại phải xem xét trong một thời gian nhất định và đưa ra quyết định từ chối hay chấp nhận cho vay.
Đề xuất vay vốn dự án đầu tư của khách hàng được hợp thức hoá bằng các tài liệu như: đơn xin vay; hồ sơ pháp lý chứng minh tư cách pháp nhân và vốn điều lệ ban đầu; hồ sơ tình hình tài chính 2 năm trước khi đề xuất vay và của 2 quý trong năm đề xuất vay; các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư xin vay (luận chứng kinh tế – kỹ thuật; bản phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm quyền; các văn bản có liên quan đến cung ứng vật tư thiết bị, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm; các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp hoặc cầm cố...).
Việc chấp nhận hay từ chối cho vay một dự án đầu tư của khách hàng phải dựa vào thẩm tra các mặt như tư cách pháp nhân; mức vốn tham gia của đơn vị vay vốn; tình hình sản xuất kinh doanh; tình hình công nợ, đồng thời phải xem xét mụch đích kinh tế xã hội, khả năng thực thi, nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn nhân lực, hướng tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh tế, khả năng hoàn trả vốn vay của dự án...
Khi xem xét, thẩm định và đi đến quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay một dự án đầu tư của khách hàng phải quán triệt các nguyên tắc: Phù hợp với nguồn vốn của ngân hàng cho vay, nghĩa là không vượt quá khả năng nguồn vốn hiện có và sẽ huy động được khả dĩ dùng vào cho vay trung và dài hạn của bản thân ngân hàng cho vay; phù hợp với quyền phán quyết cho vay trung, dài hạn mà ngân hàng cấp trên dành cho giám đốc ngân hàng đó trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn, phù hợp với chính sách ưu tiên trong đầu tư và cơ cấu đầu tư đã được quy định. Trường hợp chấp nhận cho vay do kết quả thẩm định dự án đầu tư xin vay, ngân hàng phải thông báo bằng văn bản trong thời hạn quy định để khách hàng vay kịp thời đến ngân hàng lập hồ sơ nhận nợ. Trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do để khách hàng biết.
Hồ sơ thụ lý cho vay dự án đầu tư của khách hàng chính là hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng cho vay và khách hàng. Trong hợp đồng này phải xác định rõ đối tượng vay, mức vay, thời hạn vay, lãi xuất, kế hoách trả nợ, bảo đảm tiền vay, quyền và nghĩa vụ của bên cho vay...
Dựa vào mức cho vay ghi trên hợp đồng tín dụng ngân hàng cho vay tổ chức việc giải ngân, tức là phát tiền vay để khách hàng vay sử dụng tiền vay vào việc thực thi dự án đầu tư xin vay.
Tiền cho vay được ngân hàng cho vay phát ra theo tiến độ thực hiện dự án đầu tư xin vay, được phản ánh kịp thời và chính xác vào tài khoản cho vay, khế ước vay nợ và các chứng từ hợp lệ khác.
Ngân hàng cho vay theo dõi chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án đầu tư xin vay cho đến khi dự án đầu tư kết thúc và các công trình của dự án được đưa vào thực hiện có hiệu quả, khách hàng vay trả xong nợ cho ngân hàng cho vay kể cả nợ gốc và lãi.
Sự cần thiết của việc cho vay các dự án đầu tư
Xét về mặt bản chất, việc cho vay dự án đầu tư đã làm nảy sinh một mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, mối quan hệ này chỉ được hình thành trên cơ sở sự thoả thuận giữa các bên dựa trên nguyên tắc cùng có lợi. Như vậy có thể nói việc tham gia vào quan hệ tín dụng này là hoàn toàn tự nguyện và nó đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Mặt khác, ngân hàng và các doanh nghiệp (những khách hàng thường xuyên và chủ yếu) là hai chủ thể quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hai chủ thể này chắc chắn sẽ có những tác động tích cực đối với sự phát triển chung của toang bộ nền kinh tế. Như vậy có thể khẳng định rằng việc mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư là cần thiết và khách quan, nó đem lại những lợi ích nhất định cho cả ba chủ thể : Ngân hàng (người cho vay); doanh nghiệp (người đi vay) và nền kinh tế quốc dân.
Đối với ngân hàng, trong các tài sản của các ngân hàng thương mại thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất và là khoản mục mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Thu nhập từ tiền cho vay thể hiện dưới dạng lãi tiền vay và phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn của khoản vay. Thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất càng cao và do đó thu nhập của ngân hàng càng lớn. Chính vì vậy nếu các ngân hàng có thể mở rộng cho vay nhất là cho vay trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư thì sẽ có điều kiện kiếm lời nhiều hơn. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng các khoản cho vay có thời hạn càng dài thì càng tiềm ẩn một tỷ lệ rủi ro cao và đó là lý do vì sao khi mở rộng quy mô các ngân hàng thường chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng cũng như hiệu quả dự án.
Không chỉ có vậy, việc đáp ứng tốt nhu cầu của các khách hàng cũng là một thứ vũ khí cãnh tranh lợi hại của các ngân hàng. Khả năng mở rộng các khoản vay dài hạn còn thể hiện tiềm lực vốn của ngân hàng, chất lượng tín dụng cao phần nào thể hiện năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của cán bộ và nhân viên ngân hàng. đồng thời việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn đặc biệt là với các dự án đầu tư xin vay của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh tín dụng ngắn hạn cũng như các dịch vụ ngân hàng khác bởi khi được vay vốn các doanh nghiệp sẽ có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, tăng năng lực sản xuất điều đó khiến cho nhu cầu vốn lưu động lại tăng cao và các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn... cũng sẽ tăng lên chắc chắn địa chỉ đầu tiên mà khách hàng tìm đến chính là ngân hàng và ngân hàng đã cho họ vay vẵn là sự lựa chọn được ưu tiên nhất.
Đối với doanh nghiệp: Trong mỗi nền kinh tế nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp luôn là một đòi hỏi cấp bách. Các doanh nghiệp mới được thành lập thì cần vốn để xây dựng cơ sở vật chất; nhà xưởng; kho bãi.. , mua sắm tài sản cố định và đáp ứng một phần vốn lưu động. Các doanh nghiệp đang hoạt động thì luôn có nhu cầu đổi mới trang thiết bị; nâng cao trình độ khoa học, công nghệ; tăng năng lực cạnh tranh; mở rộng sản xuất khi gặp cơ hội thuận lợi. Đặc biệt khi các cơ hội đầu tư có khả năng mang lại hiệu quả kể cả trong thời điểm trước mắt cũng như lâu dài thì một nguồn vốn lớn và ổn định sẽ trở nên hết sức cần thiết. Tín dụng ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cấp thiết ấy bởi nó có những uy điểm mà các nguồn vốn khác như phát hành cổ phiếu, trái phiếu... không có được.
- Trước hết việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho phếp mở rộng quy mô sản xuất trong khi vẫn đảm bảo quyền kiểm soát đối với doanh nghiệp của mình. Điều này sẽ không thể có được nếu nhà kinh doanh thực hiện biện pháp phát hành cổ phiếu để huy động vốn, khi đó quyền lực sẽ được san sẻ cho các cổ đông mới. Việc huy động bằng phát hành trái phiếu có thể khắc phục được nhược điểm này song lại vấp phải một vấn đề quan trọng khác đó là sự kém linh hoạt, khi cơ hội kinh doanh xuất hiện đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng chớp lấy song việc phát hành trái phiếu đòi hỏi nhiều thủ tục và điều kiện khắt khe nên mất nhiều thời gian và có thể để lỡ mất cơ hội tốt. Tất cả các vấn đề trên có thể được khắc phục nếu doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Một ưu điểm nữa của nguồn vốn tín dụng ngân hàng so với việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu là khi sử dụng nguồn vốn này doanh nghiệp sẽ tránh được các chi phí phát sinh như : chi phí phát hành; chi phí bảo lãnh; đăng ký chứng khoán...Hơn nữa, có những doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có thể sẽ không đủ điều kiện huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Đối với nền kinh tế: Nền kinh tế của mỗi quốc gia trong thời kỳ nào cũng cần có nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển. Sự tham gia của vốn tín dụng ngân hàng sẽ góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, hơn thế nữa hiệu quả đạt được của các dự án đầu tư cũng sẽ cao hơn bởi lẽ khi cho vay một trong những yêu cầu đầu tiên mà ngân hàng đặt ra là an toàn. Chính vì vậy mà đối với mỗi dự án xin vay, ngân hàng phải xem xét rất kỹ tính khả thi của dự án để tránh những rủi ro có thể xảy ra và đề ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời. Mặt khác không giống như nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng ngân hàng được giải ngân dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi, do đó người đi vay sẽ phải tính toán làm sao để có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất. Đây chính là điểm ưu việt của nguồn vốn tín dụng ngân hàng so với nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện Việt Nam hiên nay, nhiệm vụ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật XHCN được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu. Nội dung chính của công cuộc này là tập trung vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới nâng cao trình độ khoa học công nghệ; máy móc, trang thiết bị tùng bước chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại với cơ cấu công – nông nghiệp và dịch vụ hợp lý, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu. Nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư đó bao gồm: Nguồn do ngân sách Nhà nước cấp, nguồn tự tích luỹ của các doanh nghiệp, nguồn huy động từ dân cư, tín dụng ngân hàng, huy động trên thị trường chứng khoán và nguồn vốn viện trợ từ nước ngoài. Trong đó tín dụng ngân hàng đang là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho các dự án phục vụ đầu tư phát triển bởi lẽ nguồn vốn tự tích luỹ của hầu hết các doanh nghiệp nước ta hiện nay đều quá nhỏ bé, không thể đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh; Trong khi đó nguồn vốn cấp phát từ ngân sách lại khá hạn hẹp và phải đầu tư dàn trải trên nhiều lĩnh vực; Các hình thức huy động vốn đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp lại vẫn còn mới lạ đối với đại bộ phận công chúng...
Thẩm định dự án đầu tư xin vay
Thẩm định dự án đầu tư là một mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay dự án đầu tư. Thực chất của nó là dùng một số kỹ thuật phân tích, đánh giá toàn bộ các vấn đề, các phương tiện trình bày trong dự án theo một số tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật và theo một trình tự hợp lý chặt chẽ nhằm rút ra những kết luận chính xác về giá trị của dự án, từ đó quyết định cho vay đúng mức, chắc chắn mang lại hiệu quả kinh tế dự định.
Đối với các ngân hàng thương mại việc thẩm định các dự án đầu tư xin vay có thể dựa vào kết quả thẩm định của các tổ chức thẩm định chuyên nghiệp nhà nước hay dân lập. Trong trường hợp này, trách nhiệm của ngân hàng là phải có khả năng đánh giá chất lượng thẩm định dự án được thực hiện bởi một tổ chức thẩm định nào đó.
Trong trường hợp dự án đầu tư xin vay cỡ vừa và nhỏ, thời hạn thu hồi vốn không quá 5 năm, ngân hàng phải tự thực hiện thẩm định dự án đầu tư xin vay. Dù tái thẩm định hay tự thẩm định thì ngân hàng cũng đều cần đến đội ngũ cán bộ tín dụng đủ năng lực đánh giá dự án đầu tư xin vay và từ đó đưa ra kết luận chấp nhận hay từ chối tài trợ đối với dự án đầu tư xin vay.
Muốn thẩm định hay tái thẩm định một dự án đầu tư xin vay có kết quả mong muốn phải tuân thủ quy trình thẩm định, nghĩa là phải đi từ khâu thu thập thông tin cần thiết cho việc đánh giá dự án đầu tư, xử lý thông tin bằng những phương pháp thẩm định nhất định và đi đến những kết quả cụ thể và xác đáng được ghi trong tờ trình thẩm định dự án đầu tư.
Xét về nội dung thẩm định dự án, người ta thường thực hiện thẩm định ba mặt cơ bản là các phương diện kỹ thuật, phương diện kinh tế và phương diện tài chính.
Thẩm định dự án đầu tư về phương diện kỹ thuật là đi sâu nghiên cứu và phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ, thiết bị chủ yếu của dự án đầu tư để đảm bảo tính khả thi của dự án đầu tư khi thi công xây duẹng cũng như khi vận hành công trình đã hoàn thành. ở đây người ta chú ý đến sự phù hợp của quy mô dự án đầu tư với khả năng tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, năng lực, năng lực quản lý của doanh nghiệp. Sự lựa chọn thiết bị và công nghệ của dự án đầu tư, sự cung ứng nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào, sự lựa chọn địa điểm xây dựng công trình, việc quản lý dự án từ khi thai nghén đến khi kết thúc đưa vào sử dụng.
Thẩm định về mặt kinh tế xã hội của dự án đầu tư là xét đến hiệu ích của dự án trên quan điểm vĩ mô. Nó thường được xem xét dựa trên một số chỉ số sinh lời xã hội như mức đóng góp của dự án đầu tư cho nền kinh tế do tiết kiệm chi phí nhập khẩu của các sản phẩm nhập khẩu tuơng tự, chỉ số hoàn vốn, mức gia tăng việc làm, mức đóng góp vào ngân sách nhà nước, mức tích luỹ...Đồng thời ở đây người ta còn xem xét ảnh hưởng của dự án đến môi trường, đến sinh hoạt văn hoá và đến sự phát triển kinh tế của địa phương.
Thẩm định phương diện tài chính của dự án đầu tư là phân tích, đánh giá, kết luận việc sử dụng các nguồn lực tài chính trong tài trợ, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ, khả năng ứng phó trước thử thách trong quá trình đưa dự án đầu tư vào thực hiện.
Xét về phương pháp thẩm định dự án đầu tư người ta có thể áp dụng ba phương pháp cơ bản:
- Phương pháp phân tích so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất. Người ta so sánh các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật ghi trong dự án đầu tư với các tài liệu; các định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành; các tiêu chuẩn của nganh, của cả nước; các chỉ tiêu trước khi mở rộng, cải tao; các chỉ tiêu tương tự của các công trình cùng loại của nước ngoài; các văn bản pháp lý có liên quan.
- Phương pháp phân tích độ nhậy của dự án đầu tư: Dựa vào một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai và những tác động của chúng đến các chỉ tiêu hiệu quả, như sự vượt quá chi phí đầu tư ban đầu, sản lượng đạt thấp so với dự kiến, giá đầu vào tăng, giá tiêu thụ sản phẩm giẩm...mà xác định độ sai lệch an toàn cho phép dự án đầu tư vẫn có hiệu quả, nếu không thì phải áp dụng những giải pháp khắc phục hay hạn chế.
- Phương pháp hạn chế rủi ro: Lượng định một số rủi ro có thể xảy ra và những giải pháp hạn chế thích hợp thuộc giai đoạn thi công thực hiện và vận hành dự án đầu tư.
Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng hay còn gọi là hợp đồng cho vay là một văn bản được ký kết giữa người ngân hàng cho vay và người đi vay- chủ dự án đầu tư. Nó ghi nhận những thoả thuận giữa bên cho vay và bên vay về đối tượng cho vay, mức cho vay và thời gian vay, bảo đảm nợ vay. Nó là một căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện một dịch vụ cho vay dự án đầu tư.
Trước hết, trong hợp đồng phải thoả thuận một cách cụ thể đối tượng cho vay. Đó là các chi cấu thành tổng mức đầu tư của dự án như giá trị vật tư, máy móc thiết bị, giá trị công nghệ chuyển giao, giá trị sáng chế và phát minh, chi phí nhân công. giá thuê chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác, chi phí mua bảo hiểm các tài sản thuộc dự án đầu tư xin vay và các chi phí khác. Những chi phí trên đây có thể quy lại thành 3 nhóm là nhóm chi phí xây lắp, nhốm chi phí thiết bị và nhóm những chi phí khác.
Thứ hai: Trong hợp đồng tín dụng phải ghi rõ mức cho vay dự án đầu tư xin vay. Nó được xác định một cách tổng quát là mức cho vay một dự án đầu tư thì bằng hiệu số giữa tổng mức đầu tư của dự án và phần vốn của bên vay tham gia thực hiện dự án đầu tư không được nhỏ hơn 30% của tổng mức đầu tư.
Tổng mức đầu tư của dự án là tổng chi phí xây lắp, chi phí máy móc thiết bị và chi phí khác ghi trong tổng dự toán của dự án.
Phần vốn tham gia thực hiện dự án của bên vay được tính bằng tổng của vốn tự có thể hiện bằng tài sản hiện có của bên vay và vốn huy động do bên vay thực hiện.
Nếu dự án đầu tư là dự án liên doanh thì phần tham gia của bên vay phải tính cho các bên liên doanh.
Trường hợp dự án đầu tư xin vay có điều kiện thế chấp tài sản thì mức cho vay không thể lớn hơn 70% mức tài sản thế chấp.
Mức cho vay dự án đầu tư không thể sử dụng một lần mà được sử dụng dần dần trong quá trình thực hiện thi công của dự án. Từ đó tất yếu nảy sinh phạm trù mức cho vay còn lại. Mức cho vay còn lại bằng mức cho vay trừ đi số dư nợ hiện có. Mỗi lần giải ngân ngân hàng phải chú ý đến mức cho vay còn lại này.
Thứ ba: Trong hợp đồng tín dụng phải ghi rõ thời hạn nợ hay còn gọi là thời hạn cho vay. Nó bao gồm thời hạn rút vốn, thời hạn trả nợ và thời hạn ân hạn nếu có.
Cuối cùng: Trong hợp đồng tín dụng phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ của ngân hàng cho vay và người vay. Quyền và nghĩa vụ này nếu không có thoả thuận gì khác giữa ngân hàng cho vay và khách hàng vay thì phải tuân thủ những quy định về quyền và nghĩa vụ đó của quy chế cho vay hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.